Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 01/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 01 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 43/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 47/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Ngô Văn T, sinh năm 1990, tại tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Đ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 08/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn H và bà Lê Thị Y (chết); Có vợ và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 13/3/2022 bị Công an huyện H ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, với số tiền 1.500.000đ đã nộp phạt vào ngày 18/3/2022; Tạm giữ: Từ ngày 17/7/2023 đến ngày 26/7/2023, Tạm giam: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người làm chứng: Lê Văn M, Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn T1. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 17/7/2023 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an huyện H phối hợp với Công an xã T và Công an xã T tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn thì phát hiện bị cáo Ngô Văn T đang điều khiển xe mô tô mang biển số 66G1-xxxxx do anh Nguyễn Văn T1 đứng tên sở hữu có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu bị cáo dừng xe kiểm tra thì bị cáo dùng tay phải lấy trong túi áo thun bên ngực trái 01 khẩu trang y tế màu xám ném xuống đường, kiểm tra phát hiện bên trong khẩu trang có cất giấu 02 túi nylon được quấn kín bằng keo đen, nghi là ma túy và 01 nỏ thủy tinh nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và niêm phong theo quy định Vật chứng thu giữ:

- 02 (hai) túi nylon được quấn kín bằng băng keo màu đen bên, không kiểm tra được chất lượng và số lượng bên trong nghi là ma túy, được niêm phong trong phong bì giấy, có chữ ký ghi họ tên của Nguyễn Thanh N, Đào Hữu N1, Nguyễn Văn C, Ngô Văn T và hình dấu tròn màu đỏ của Công an xã T. Tại biên bản mở gói niêm phong ngày 17/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ bên trong có: 01 túi nylon được quấn băng keo màu đen bên ngoài, bên trong có 01 túi nylon hàn kín chứa tinh thể rắn và 01 túi nylon được quấn băng keo màu đen bên ngoài, bên trong có 02 túi nylon hàn kín đều chứa tinh thể rắn, tinh thể rắn trong 03 túi nylon hàn kín có tổng khối lượng 0,814gam;

- 01 khẩu trang y tế màu xám dùng để gói ma túy, đã qua sử dụng;

- 01 cái nỏ bằng thủy tinh;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, có gắn thẻ sim 0373.018.xxx của Ngô Văn T dùng để liên lạc mua ma túy;

- 01 xe mô tô biển số 66G1-xxxxx, nhãn hiệu Suzuki, số khung 11AZKTJ201959, số máy: ID202038, màu sơn: xanh - đỏ đã qua sử dụng. Do anh T1 đứng tên chủ sở hữu, không biết việc bị cáo mượn xe để đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả xe lại cho anh T1.

- Tiền Việt Nam đồng: 1.425.000đ của bị cáo trong quá trình điều tra chứng minh được không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại tiền cho bị cáo.

Kết luận giám định số 779/KL-KTHS ngày 20/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ, kết luận: Tinh thể rắn chứa trong 03 túi nylon hàn kín, được niêm phong trong phong bì nêu trên gửi đi giám định là chất ma túy, có tổng khối lượng 0,814 gam, loại Methamphetamine (số thứ tự 247, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ).

Trong quá trình điều tra bị cáo Ngô Văn T thừa nhận đã mua ma túy của người thanh niên lạ mặt, không rõ họ tên địa chỉ do anh Lê Văn M giới thiệu và hẹn gặp tại cầu N thuộc ấp C, xã T 2, bị cáo đưa cho người thanh niên lạ mặt 500.000đ và nhận ma túy cùng 01 nỏ thủy tinh, với mục đích tàng trữ để sử dụng trên đường đi về thì bị bắt quả tang, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của Ngô Văn T, biên bản ghi lời khai của Nguyễn Văn C.

Tại Cáo trạng số 44/CT-VKSHN ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Đ truy tố bị cáo Nơô Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (viết tắt BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo Ngô Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 BLSH xử phạt bị cáo T từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự (viết tắt: BLTTHS), đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

+ Tịch thu, tiêu hủy: Mau tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,713 gam, được dán giấy niêm phong lại trong phong bì giấy, ghi “Niêm phong số: 770, ngày 17/7/2023”, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của “Phòng K - Công an tỉnh Đ” và các chữ ký ghi họ tên: Lê Minh V, Phan Nguyễn Hà G, Đào Hữu N1 và Ngô Văn T; 01 (một) cái nỏ bằng thủy tinh; 01 khẩu trang y tế màu xám.

+ Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, có gắn thẻ sim 0373.018.xxx.

Về trách nhiệm dân sự: Không phát sinh nên không đề cập đến.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất với cáo trạng truy tố và bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, vì 02 con còn nhỏ, lần đầu tiên sử dụng ma túy, sau này không sử dụng nữa, để lo cho con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Đ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và tội danh: Vào ngày 17/7/2023 bị cáo Ngô Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,814 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, lời khai của người làm chứng. Được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật tài liệu, biên bản trích mẫu, đóng gói và niêm phong, bản kết luận giám định số 779/KL-KTHS ngày 20/7/2023 của Phòng K Công an tỉnh Đ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án được kiểm tra đánh giá tại phiên tòa đã đủ cơ sở xác định bị cáo Ngô Văn T đã tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyn, sản xuất trái phép ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...

c. Heroine, C1, Methamphetamỉne, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến 05 gam;

...” [3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là một tệ nạn xã hội, gây ra tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe của con người, xói mòn đạo đức, phá hoại hạnh phúc của nhiều gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo đã thành niên, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình và có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định. Trước khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép ma túy bị cáo biết rõ ma túy Nhà nước cấm tàng trữ nhưng vì nghiện nên bị cáo đã tìm mua ma túy về tàng trữ để sử dụng, chứng tỏ việc phạm tội của bị cáo là cố ý, thể hiện sự xem thường pháp luật. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình gây ra.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là thành phần nhân dân lao động.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo có ông ngoại là Lê Văn T2 được tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, thuộc thành phần nhân dân lao động, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy ma túy đã và đang là vấn nạn của toàn xã hội. Đảng và Nhà nước không ngừng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh, phòng chống nhằm đẩy lùi tệ nạn ma túy. Bị cáo đã từng bị Công an huyện H ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, đáng lẻ bị cáo phải biết tu dưỡng bản thân và tránh xa tệ nạn xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật cũng như công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và tình hình an ninh trật tự địa phương nghĩ nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian học tập cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo để quyết định cho bị cáo một mức hình phạt phù hợp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của BLHS quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản ” Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm thuê, thu nhập không ổn định, không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Không có.

[10] Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: Mẫu tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,713 gam, được dán giấy niêm phong lại trong phong bì giấy, ghi “Niêm phong số: 770, ngày 17/7/2023”, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của “Phòng K - Công an tỉnh Đ” và các chữ ký ghi họ tên: Lê Minh V, Phan Nguyễn Hà G, Đào Hữu N1 và Ngô Văn T; 01 (một) cái nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) khẩu trang y tế màu xám đã qua sử dụng là vật không còn giá trị sử dụng, vật cấm tàng trữ, lưu hành. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, 01 (một) thẻ sim điện thoại 0373.018.xxx là công cụ, phương tiện phạm tội theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

[11] Về án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Ngô Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[12] Các vấn đề khác trong vụ án:

- Đối với hành vi của Lê Văn M giới thiệu người cho bị cáo T mua ma túy để sử dụng nhưng trong quá trình điều tra không có chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội nên không đặt xem xét là phù hợp.

- Về nguồn gốc ma túy Ngô Văn T khai mua của người thanh niên lạ mặt, Cơ quan điều tra chưa xác định được họ tên, năm sinh và địa chỉ cư trú nên chưa xem xét xử lý, khi nào làm việc sẽ xử lý sau là phù hợp.

[13] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát huyện H về tội danh, khung hình phạt và các vấn đề khác là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ những ngày tạm giữ, từ ngày 17/7/2023 đến ngày 26/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

2.1 Tịch thu, tiêu hủy: Mau tinh thể rắn còn lại sau giám định có khối lượng 0,713 gam, được dán giấy niêm phong lại trong phong bì giấy, ghi “Niêm phong số: 770, ngày 17/7/2023”, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của “Phòng K - Công an tỉnh Đ” và các chữ ký ghi họ tên: Lê Minh V, Phan Nguyễn Hà G, Đào Hữu N1 và Ngô Văn T; 01 (một) cái nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) khẩu trang y tế màu xám, đã qua sử dụng.

2.2 Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng; 01 (một) thẻ sim điện thoại 0373.018.xxx.

(Những vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Đ đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03 tháng 10 năm 2023).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Ngô Văn T chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 01 tháng 11 năm 2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2023/HS-ST

Số hiệu:46/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về