Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 46/2022/HS-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H, sinh ngày: 21/02/1995. Tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Bùi Thị R; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Không có. Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17 ngày 15/8/2021 của Công an thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 02/02/2022, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bến Cầu từ ngày 08/02/2022 đến nay. Có mặt.

2. Đào Thanh Đ, sinh ngày: 15/7/2003. Tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm mướn. Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đào Văn Ph và bà Huỳnh Thị Bích V1; Vợ, con: Chưa có. Tiền án: Không có; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/01/2022, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bến Cầu từ ngày 19/01/2022 đến nay. Có mặt.

3. Nguyễn Văn T (tên gọi khác: M1); sinh năm: 1996; Tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh; Nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th2 và bà Lê Thị Th; Vợ, con: Chưa có; Tiền án: Bản án số 24/2017/HS-ST, ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 138, điểm g khoản 1 Điều 48; điểm p khoản 1 Điều 46 xử phạt Nguyễn Văn T 02 năm 06 tháng tù; Tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 25/12/2021, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bến Cầu từ ngày 31/12/2021 đến nay. Có mặt.

4. Nguyễn Văn N (tên gọi khác: N3), sinh ngày: 01/01/1997. Tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm mướn. Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị T4; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 26/12/2021, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bến Cầu từ ngày 01/01/2022 đến nay. Có mặt.

Người bào chữa của bị cáo Nguyễn Văn N là ông Phạm Văn T5 và bà Võ Hướng D- Luật sư Công ty Luật TNHH Bảo Minh Lý thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh. Ông T5 có đơn xin vắng mặt, bà D có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong H sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vụ án thứ nhất: Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 25/12/2021, Nguyễn Văn N điều khiển xe mô tô biển số 70C1-xxx.48 chở Nguyễn Văn T đi công việc. Do có nhu cầu sử dụng ma túy, T kêu Ninh cho mượn 300.000 đồng và điện thoại cho Nguyễn Văn H hỏi mua ma túy, Ninh điện thoại cho H đồng ý bán và hẹn Ninh đến khu vực Khu phố 2, thị trấn Bến Cầu để bán ma túy. Khi T và Ninh đến gặp H, Ninh đưa 300.000 đồng cho H, H đưa ma túy cho T, mua ma túy xong cả hai về nhà. Đến 19 giờ 30 phút cùng ngày, Ninh điều khiển xe mô tô chở T đi uống cà phê, khi đi đến khu vực ấp Long Thịnh, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, thấy có Công an nên T ném 01 bịch nylon được hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn được quấn bên trong tờ tiền 1.000 đồng xuống đất (nghi là ma túy) nên bắt quả tang, tạm giữ người và vật chứng để làm rõ.

Ngoài ra, H còn khai nhận bán ma túy Nguyễn Văn N 02 lần khác để Ninh sử dụng, cụ thể:

Lần một: Vào ngày 17/12/2021, tại khu vực ấp Long Châu, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, H bán cho Ninh và T 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng.

Lần hai: Vào 15 giờ 30 phút ngày 25/12/2021, tại trạm y tế xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, H bán cho Ninh và T 01 bịch ma túy giá 200.000 đồng.

Vụ thứ 2: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 10/01/2022, Đào Thanh Đ đang làm thuê tại tiệm rửa xe “Vinh” thuộc khu phố 2, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì Phạm Thanh Ph điện thoại và nhắn tin qua Zalo cho Đ hỏi mua 01 bịch ma túy giá 300.000 đồng. Sau đó, Đ điện thoại cho Nguyễn Văn H mua 300.000 đồng ma túy đem về bán lại cho Phúc tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh thì bị bắt quả tang.

Ngoài lần bắt quả tang, Đ và H còn khai nhận: Đ còn mua ma túy của H 02 lần để bán lại cho Phúc, cụ thể:

Lần một: Cách ngày bắt quả tang khoảng 7 ngày (ngày 03/01/2022), Đ mua 01 bịch ma túy của H giá 200.000 đồng về bán lại cho Phúc tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giá 230.000 đồng.

Lần hai: Cách ngày bắt quả tang khoảng 14 ngày (ngày 26/12/2021), Đ mua 01 bịch ma túy của H giá 200.000 đồng về bán lại cho Phúc tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh giá 230.000 đồng.

Vụ thứ 3: Do có nhu cầu sử dụng ma túy vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 01/02/2022, Nguyễn Văn H đón xe khách Đồng Phước đến Bến xe An Sương gặp người đàn ông (không rõ lai lịch) mua 2.500.000 đồng ma túy đá, đựng trong 02 (hai) bịch nylon trong suốt hàn kín có một đầu khóa bóp (một bịch nylon có viền sọc xanh, một bịch nylon có viền sọc đỏ), H cất số ma túy vừa mua trong túi rút màu da bò có ghi dòng chữ HONEST, dây rút màu đen để trong túi quần bên trái đón xe khách Đồng Phước về đến huyện Gò Dầu, đi nhờ xe của người đàn ông (không rõ lai lịch) đến khu vực Cầu Phao thuộc xã Lợi Thuận, huyện Bến Cầu thì xuống xe đi vào bụi cây vắng người lấy ra một ít ma túy trong bịch nylon trong suốt hàn kín có một đầu khóa bóp có viền sọc xanh ra sử dụng một mình. Sau đó, H đi bộ đến nhà bạn gái là Lâm Thị Thu H thuộc ấp A, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu để ngủ và ở lại đến khoảng 14 giờ 45 phút ngày 02/02/2022, thì bị bị Công an phát hiện bắt quả tang.

Ngoài ra H còn nhiều lần bán ma túy cho Đào Văn A, sinh năm 1994, ngụ Khu phố 3, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nhưng không rõ thời gian, địa điểm.

Kết luận giám định số: 1626/KL-KTHS ngày 29/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon trong suốt hàn kín (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,6477 gam.

Kết luận giám định số: 87/KL-KTHS ngày 14/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 01 bịch nylon trong suốt, hàn kín ba đầu khóa bóp có viền màu đỏ (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,0246 gam.

Kết luận giám định số: 217/KL-KTHS ngày 05/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng bên trong 02 bịch nylon trong suốt hàn kín có một đầu khóa bóp (một bịch nylon có viền sọc xanh một bịch nylon có viền sọc đỏ) (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,8857 gam.

Kiểm tra nồng độ chất ma túy, phát hiện Nguyễn Văn H, Đào Thanh Đ và Đào Văn A có kết quả (+) D tính với chất ma túy (Methamphetamine); Nguyễn Văn N, Nguyễn Văn T (-) âm tính với chất ma túy (Methamphetamine).

Quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Văn H, Đào Thanh Đ tự khai các lần phạm tội trước đó, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn N thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T có 01 tiền án chưa được xóa án tích, tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do lỗi cố ý.

* Vật chứng thu giữ hiện do Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bến Cầu quản lý bao gồm: Tiền Việt Nam 300.000 đồng; 01 gói niêm phong vụ số: 1626, có chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Nguyễn Thị Thùy D có đóng dấu tròn của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Tây Ninh khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 1,3154 gam; 01 ống thủy tinh trong suốt có ụ tròn;

01 điện thoại di động hiệu Redmi Note 8, màu đen, số IMEI: 861312040308980;

01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu đen, số IMEI: 35235311xxxx654; 01 xe mô tô biển số 70C-xxx.48; 01 điện thoại di động hiệu VIVO, đã qua sử dụng, số IMEI: 865635045257794; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI: 35120118523744; 01 gói niêm phong vụ số: 217/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Tây Ninh; 01 túi rút màu da bò.

* Nguyễn Văn H, Đào Thanh Đ, Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn N không có tài sản nên Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên.

Tại bản cáo trạng số: 29/CT - VKS ngày 22 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b,c Khoản 2 Điều 251; điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; bị cáo Đào Thanh Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; các bị cáo Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn N và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn H, Đào Thanh Đ, Đào Văn A Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

Đối với Lâm Thị Thu H không biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn H, nên không xử lý.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H do không rõ lai lịch nên không làm việc được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Trong phần tranh luận, Kiểm sát viên trình bày giữ nguyên quan điểm mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố, đề nghị:

* Về trách nhiệm hình sự:

1. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn H từ 09 năm đến 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Điều 55 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt Nguyễn Văn H từ 10 năm 06 tháng đến 12 năm tù. Phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Đào Thanh Đ từ 08 năm đến 09 năm tù. Phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng.

3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị can do không có tài sản.

4. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyễn Văn N từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị can do không có tài sản.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bào chữa của Luật sư D cho bị cáo N: Thống nhất về tội danh, khung hình phạt và tình tiết tăng nặng như ý kiến của Kiểm sát viên. Tuy nhiên bị cáo N là lao động chính trong gia đình do cha, mẹ ruột của bị cáo lớn tuổi và không còn sức lao động, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp hơn khung hình phạt thấp nhất, tuyên bị cáo bằng thời gian tạm giữ, tạm giam và căn cứ Điều 328 của Bộ luật Tố tụng dân sự tuyên trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

Ý kiến tranh luận của Kiểm sát viên: Bị cáo phạm tội nghiêm trọng nên không có căn cứ cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo chỉ được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên không có căn cứ áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự để áp dụng mức hình phạt dưới khung hình phạt thấp nhất cho bị cáo.

Bị cáo H, Đ, T, Ninh không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong H sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của các bị cáo thể hiện: Ngày 25/12/2021, tại khu phố 2, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn H bán 0,6477 gam chất ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn N, sau khi nhận ma túy, T và Ninh đem đến ấp Long Thịnh, xã Long Khánh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh sử dụng thì bị bắt quả tang. Ngày 10/01/2022, H tiếp tục bán 0,0246 gam chất ma túy loại Methamphetamine cho Đào Thanh Đ, Đ đem ma túy đến khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh bán cho Phạm Thanh Phúc thì bị bắt quả tang. Ngày 02/02/2022, H cất giấu 0,8857 gam chất ma túy loại Methamphetamine tại ấp A, xã Tiên Thuận, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh nhằm mục sử dụng thì bị phát hiện. Ngoài ra tại khu phố 4, thị trấn Bến Cầu, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, H còn bán ma túy cho Đ 02 lần để Đ bán lại cho Phúc, bán cho Ninh và T 02 lần và Đào Văn Ân nhiều lần để sử dụng nhưng không rõ thời gian.

[2.1] Bị cáo Nguyễn Văn H bán ma túy hai lần trở lên và cho 02 người nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[2.2] Bị cáo Nguyễn Văn H tàng trữ 0,8857 gam chất ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng nên đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Bị cáo Đào Thanh Đ bán ma túy cho 02 người nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[2.4] Các bị cáo T, Ninh tàng trữ khối lượng 0,8095 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng nên đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội, việc tàng trữ và sử dụng ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho cho bản thân, gia đình và xã hội. Bởi lẽ người nghiện ma túy sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Văn T tái phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo khác không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo H và bị cáo Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo H đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự và được tặng nhiều giấy khen nên được hường tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận. Do đó xét thấy cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật.

[6] Về vật chứng:

- Đối với: Tiền Việt Nam 300.000 đồng tiền bị cáo Đ bán ma túy, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu đen, số IMEI: 35235311xxxx654;

01 xe mô tô biển số 70C-xxx.48; 01 điện thoại di động hiệu VIVO, đã qua sử dụng, số IMEI: 865635045257794 là tiền thu lợi bất chính và phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội có giá trị sử dụng nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 gói ma túy là chất cấm sử dụng, 01 ống thủy tinh trong suốt có ụ tròn; 01 túi rút màu da bò là tang vật không cò giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Trả cho bị cáo T 01 điện thoại di động hiệu Redmi Note 8, màu đen, số IMEI: 861312040308980; nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho bị cáo Đ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI: 35120118523744; nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án [7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “mua bán trái phép chất ma túy” và“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Đào Thanh Đ phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy” - Bị cáo Nguyễn Văn T và bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 35 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt chung của hai tội là 10 (mười) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02 tháng 02 năm 2022. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

2.2. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm r, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Đào Thanh Đ 08 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10 tháng 01 năm 2022. Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000 (năm triệu) đồng.

2.3. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17, Điều 58, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2021.

2.4. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17, Điều 58, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26 tháng 12 năm 2021.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: Tiền Việt Nam 300.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A51, màu đen, số IMEI:

35235311xxxx654; 01 xe mô tô biển số 70C-xxx.48; 01 điện thoại di động hiệu VIVO, đã qua sử dụng, số IMEI: 865635045257794.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong vụ số: 1626/KL-KTHS, có chữ ký của giám định viên Võ Quốc Thái, trợ lý Nguyễn Thị Thùy D có đóng dấu tròn của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Tây Ninh, 01 (một) gói niêm phong vụ 217/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Tây Ninh, 01 ống thủy tinh trong suốt có hình trụ tròn; 01 túi rút màu da bò.

- Trả cho bị cáo T 01 điện thoại di động hiệu Redmi Note 8, màu đen, số IMEI: 861312040308980; nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho bị cáo Đ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI: 35120118523744; nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án mỗi bị cáo chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo: bị cáo được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 46/2022/HS-ST

Số hiệu:46/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về