TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 27/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 53/2023/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Cà Văn T, sinh năm 1975, tại Sông M, Sơn La.
Nơi cư trú: Bản T, xã Đứa M, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Cà Văn Ứ (đã chết) và bà Cà Thị Th; bị cáo có vợ là Cà Thị H và 03 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 13/11/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên xử phạt 06 năm 06 tháng tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/8/2023 cho đến nay; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 11 giờ 00 phút ngày 30/8/2023 tổ công tác Công an xã Đứa M, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ phòng chống ma tuý tại bản T, xã Đứa M, huyện Sông Mã phát hiện một người đàn ông đang đi bộ trên đường có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma tuý nên đã yêu cầu dừng lại để kiểm tra hành chính. Khi dừng lại đối tượng khai nhận tên là Cà Văn T, sinh năm 1975 trú tại bản T, xã Đứa M, huyện Sông Mã, qua làm việc, kiểm tra phát hiện trong túi áo ngực trước bên phải có 06 gói nilon màu hồng, trong đó bên trong 05 gói chứa cục bột liên kết màu trắng, 01 gói chứa chất bột màu hồng (T khai nhận là Heroine và Hồng phiến). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.
Ngày 31/8/2023 tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả:
- Các cục bột liên kết màu trắng có khối lượng là 0,14 gam đã sử dụng toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1.
- Số bột màu hồng có khối lượng là 0,05 gam đã sử dụng toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu T2.
Tại bản kết luận giám định số 2103/KL ngày 31/8/2023 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:
“- Mẫu ký hiệu T1 gửi giám định là ma tuý, Loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,14 gam.
- Mẫu ký hiệu T2 gửi giám định là ma tuý, Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam.
- Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,14 gam, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma tuý và tiền chất và 0,05 gam Loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra bị cáo Cà Văn T khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 15 giờ ngày 29/8/2023 T cầm theo số tiền 220.000 đồng (là tiền lao động tiết kiệm mà có), một mình đi bộ từ nhà ở bản T đến bản Huổi Phẩng, xã Đứa M, huyện Sông Mã để tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi đến bản Huổi Phẩng, T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không rõ danh tính, T hỏi mua được 06 gói ma tuý đều được gói bằng các mảnh nilon màu hồng với số tiền 220.000 đồng, trong đó 05 gói chứa Heroine và 01 gói chứa bột Hồng phiến. Mua được ma tuý, T đem về nhà, trên đường về T đã trích ra một ít Heroine để sử dụng bằng hình thức hít qua đường hô hấp rồi gói lại như ban đầu và cho vào túi áo bên phải phía trước đem về đến nhà T cởi áo có chứa ma tuý treo lên cột hiện nhà. Khoảng 10 giờ 50 phút ngày 30/8/2023 T mặc chiếc áo có chứa ma tuý đi ra vườn để cắt cỏ cho cá thì bị tổ công tác Công an xã Đứa M, huyện Sông Mã phát hiện, quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng như đã nêu trên.
Cáo trạng số 227/CT-VKSSM ngày 15 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Cà Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Cà Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Cà Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Cà Văn T từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng tù.
Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:
Tịch thu để tiêu hủy 06 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;
Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo.
Bị cáo Cà Văn T không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 30/8/2023 bị cáo Cà Văn T đã có hành vi tàng trữ 0,14 gam ma túy, loại Heroine và 0,05 gam ma túy, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng của 02 chất ma túy là 0,19 gam, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Cà Văn T thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân:
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến Hang nhất. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo tuy không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, đã 01 lần bị kết án, đã được xóa án tích. Do đó, khi lượng hình cũng cần cân nhắc để có một mức án phù hợp tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
[5] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
[6] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về các vấn đề có liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Mông, không rõ tên, địa chỉ là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại bản Huổi Phẩng, xã Đứa M, Sông Mã vào ngày 30/8/2023. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 06 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Cà Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Cà Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/8/2023.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu để tiêu huỷ 06 mảnh nilon màu hồng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.
(các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 064591).
Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 215/QĐ-VKS ngày 15/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 17 tháng 11 năm 2023 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Cà Văn T được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/11/2023).
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2023/HS-ST
Số hiệu: | 45/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về