Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ CỪ, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2023/TLST-HS ngµy 30/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 07/12/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Đình T, sinh năm 1991 tại H, N, Hải Dương; nơi cư trú: thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình T1(đã chết) và bà Trương Thị B; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 27/9/2013 bị Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt 30 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (chấp hành hình phạt xong ngày 11/10/2015) và ngày 12/10/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, Hải Dương quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng (chấp hành xong ngày 06/11/2020); tạm giữ ngày 24/10/2023; tạm giam ngày 27/10/2023; bị cáo hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên “có mặt”.

- Người chứng kiến: ông Nguyễn Văn T2, sinh năm 1972; Trú tại: thôn T3, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/10/2023 trên đường quốc lộ 38B thuộc địa phận thôn Q1, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên; tổ công tác của Công an huyện Phù Cừ phối hợp với Công an xã Quang Hưng, huyện Phù Cừ phát hiện Nguyễn Đình T, sinh năm 1991 trú tại thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương có biểu hiện nghi vấn. Quá trình kiểm tra Nguyễn Đình T tự nguyện giao nộp 01 gói giấy bạc kích thước (1,5 x 2)cm bên trong chứa chất bột và cục màu trắng T đang cất giấu trong lòng bàn tay trái. T khai nhận chất bột và cục màu trắng trong gói giấy bạc vừa giao nôp là ma túy loại Heroine của T cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng, đưa T về trụ sở để làm việc.

Kết quả điều tra Nguyễn Đình T khai nhận: T là người nghiện chất ma túy. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 24/10/2023, T đi bộ một mình từ nhà ra đường chính, sau đó đi nhờ xe máy của người đi đường đến địa phận tỉnh Hưng Yên (T không biết thuộc thôn, xã, huyện nào của tỉnh Hưng Yên) mục đích đi tìm mua ma túy Heroine để sử dụng. Khi T xuống xe đi bộ một lúc đến đoạn đường vắng, T gặp một người đàn ông lạ mặt đang đứng ở lề đường (T không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này). T đi đến gặp người đàn ông này và hỏi mua ma túy loại Heroine với số tiền là 400.000 đồng. T đưa tiền cho người đàn ông nhận và người đàn ông này đưa cho T một gói giấy bạc bên trong chứa ma túy loại Heroine. T cầm gói ma túy vừa mua được cất giấu trong lòng bàn tay trái và đang đi tìm mua bơm, kim tiêm và tìm nơi vắng vẻ để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện Phù Cừ kiểm tra, bắt quả tang.

Ngày 26/10/2023 cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đình T tại thôn V, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương, kết quả khám xét không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số: 566/KL-KTHS (MT) ngày 27/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục và bột trong niêm phong ký hiệu M1 (thu giữ của T) có khối lượng là 0,355 gam là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là:

Diacetylmorphine. Hoàn lại 0,341 gam ma túy, loại Heroine (Heroin) trong niêm phong ghi số 566/KL/KTHS(MT).

Kiểm tra chất ma túy trong cơ thể đối với Nguyễn Đình T, kết quả dương tính với ma túy loại Heroine.

Vật chứng gồm: 01 phong bì niêm phong ghi số 566/KL-KTHS(MT), bên trong có chứa chất ma túy Heroine (Heroin), 01 mảnh giấy bạc và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật, do cơ quan giám định hoàn lại sau giám định, hiện đang quản lý tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên.

Đối với 01 người đàn ông lạ đã bán ma túy cho T và 01 người bạn nghiện đã chỉ chỗ cho T đến mua ma túy, nhưng do T đều không biết tên, tuổi, địa chỉ, lai lịch của các người trên, nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra, xác minh về hai người này.

Tại Cáo trạng số: 42/CT-VKSPC ngày 30/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Đình T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên luận tội, phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố hành vi phạm tội của bị cáo T theo nội dung cáo trạng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo T; vật chứng: đề nghị tịch thu mẫu vật là ma túy do cơ quan giám định hoàn lại, cho tiêu hủy. Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Bị cáo Nguyễn Đình T nhận tội, khai báo thành khẩn diễn biến hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với hành vi của bị cáo T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố theo nội dung cáo trạng. Tại phiên tòa bị cáo T đã nhận rõ sai phạm của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phạt bị cáo mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: cơ quan điều tra Công an huyện Phù Cừ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng, đầy đủ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và tài liệu chứng cứ thu thập trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2]. Lời khai nhận tội của Nguyễn Đình T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trước cơ quan điều tra, đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Đình T là một gói giấy bạc kích thước (1,5 x 2)cm bên trong có chứa chất bột và cục màu trắng, T khai nhận chất bột và cục màu trắng bên trong gói giấy bạc do T tự nguyện giao nộp là chất ma túy, loại Heroine của T mang theo để sử dụng cá nhân; đồng thời phù hợp với lời khai của ông Nguyễn Văn T2 là người chứng kiến khi Nguyễn Đình T bị bắt quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và kết luận giám định mẫu chất bột và cục màu trắng trong niêm phong ký hiệu M1 (thu giữ của Nguyễn Đình T có khối lượng là 0,355 gam là ma túy, loại Heroine (Heroin); cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 24/10/2023 tại đoạn đường Quốc lộ 38B thuộc địa phận thôn Q1, xã Q, huyện P, tỉnh Hưng Yên bị cáo Nguyễn Đình T đang có hành vi cất giấu trái phép trên người 0,355 gam là chất ma túy, loại Heroine (Heroin) để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện Phù Cừ phát hiện bắt quả tang và thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng. Nguyễn Đình T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo T thực hiện như phân tích đã có đủ dấu hiệu cấu thành Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên truy tố Nguyễn Đình T về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là chính xác, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[3]. Xét hành vi phạm tội của Nguyễn Đình T là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với chất ma túy và các chất gây nghiện. Bản thân bị cáo T là người nghiện chất ma túy, biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, trí tuệ của con người, gây thiệt hại về kinh tế và là một trong các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm khác. Bị cáo T sử dụng chất ma túy để thỏa mãn ham muốn cá nhân dẫn đến phạm tội, đồng thời còn gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng kết án phạt tù cùng về loại tội tàng trữ trái phép chất ma túy và 01 lần bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy bị cáo T đã được xóa án tích và quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt hành chính, song bị cáo không lấy đó làm bài học để phấn đấu, tu dưỡng thành người tốt mà lại tiếp tục phạm tội về ma túy, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm minh, áp dụng cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội bị cáo gây ra và cần cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian cần thiết để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và làm bài học răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng: bị cáo Nguyễn Đình T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về tình tiết giảm nhẹ: Nguyễn Đình T phạm tội bị bắt quả tang, quá trình điều tra và tại phiên tòa đều nhận tội, khai báo thành khẩn nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật.

[6]. Về hình phạt bổ sung: bị cáo T là người nghiện ma túy, không có tài sản và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7]. Biện pháp tư pháp:

- Mẫu vật là chất ma túy Heroine (Heroin) do cơ quan giám định hoàn lại trong niêm phong là chất Nhà nước cấm, nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

[8]. Về án phí: bị cáo Nguyễn Đình T là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Đình T phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày tạm giữ là ngày 24/10/2023.

Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu toàn bộ số ma túy Heroine (Heroin) do cơ quan giám định hoàn lại trong niêm phong ghi số: 566/KL-KTHS (MT) ngày 27/10/2023, cho tiêu hủy.

(Chi tiết về số lượng, chất lượng, đặc điểm, tình trạng vật chứng được mô tả cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/12/2023 giữa Công an huyện Phù Cừ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Cừ).

Án phí: bị cáo Nguyễn Đình T phải chịu 200.000đ, (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bản án sơ thẩm xét xử công khai có mặt bị cáo, đã báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2023/HS-ST

Số hiệu:45/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Cừ - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về