TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 13 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 6 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Hà Văn M, sinh ngày 25/7/1991, tại huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang;
Nơi cư trú: Thôn Bản C, xã Bình P, huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 09/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; bố đẻ: Hà Văn T, sinh năm 1971; mẹ đẻ: Đoạn Thị L, sinh năm 1971; có vợ Nông Thị H (đã ly hôn) và có 01 con.
Tiền án: Ngày 20/11/2019 bị TAND huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 157/2019/HS-ST). Ngày 15/10/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích;
Tiền sự: Không có;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
2. Ma Văn M, sinh ngày 07/01/1994, tại huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang;
Nơi cư trú: Thôn Bản C, xã Bình P, huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: Lớp 07/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; bố đẻ: Ma Văn N, sinh năm 1955; mẹ đẻ: Hà Thị H, sinh năm 1953; vợ, con chưa có;
Tiền án: Ngày 29/11/2019 bị TAND huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 02 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án số 174/2019/HSST). Ngày 11/7/2021 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích;
Tiền sự: Không có;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đoạn Thị L, sinh năm 1971; địa chỉ: Thôn Bản Cg, xã Bình P, huyện Chiêm H, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 09/3/2022, Ma Văn M rủ Hà Văn M góp tiền tìm mua chất ma túy về sử dụng. Sau khi được M đồng ý, M đưa cho M 200.000đ, sau đó M lấy xe mô tô biển kiểm soát 22F1-287….(xe của chị Đoạn Thị L - mẹ đẻ của M) rồi chở M đi đến thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, mục đích là tìm mua chất ma túy về sử dụng. Khi đến nơi M xuống xe một mình đi bộ tìm mua được 01 gói nhỏ Heroine (có đặc điểm bên ngoài gói bằng nilon nhiều màu, tiếp theo là giấy bạc màu vàng, trong cùng là Heroin vón cục màu trắng) với một người đàn ông tự giới thiệu tên Tiến không biết địa chỉ, với số tiền 400.000đ. Mua được Heroine, trên đường về M và M đã cùng sử dụng hết một phần bằng cách đốt hít vào cơ thể, số Heroine còn lại M gói lại như cũ và đưa cho M, M nói "Cầm về để tối cả hai cùng chơi". Khoảng 14 giờ 45 phút cùng ngày, khi M và M về đến khu vực thôn Nà Héc, xã Yên Lập, huyện Chiêm Hóa thì bị tổ công tác Công an huyện Chiêm Hóa phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với M và M về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy và tạm giữ toàn bộ tang vât. Cùng ngày Công an huyện Chiêm Hóa xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể đối với Hà Văn M và Ma Văn M, đều có kết quả: (+) Dương tính với chất ma túy.
Kết luận giám định số 343/KL-GĐKTHS ngày 14/3/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,160g (không phẩy một sáu không gam).
Tại Cáo trạng số 49/CT-VKSCH, ngày 17 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa đã truy tố các bị cáo Ma Văn M và Hà Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố các bị cáo Ma Văn M, Hà Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.
+ Xử phạt bị cáo Ma Văn M từ 01 năm 05 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 09/3/2022.
+ Xử phạt bị cáo Hà Văn M từ 01 năm 04 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 09/3/2022.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
- Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy khối lượng Heroine thu giữ của các bị cáo đã được niêm phong.
- Áp dụng các Điều 136, 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Tại phiên tòa các bị cáo Ma Văn M và Hà Văn M tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo phù hợp với lời khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra, không có tình tiết mới. Các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định. Các bị cáo nhất trí luận tội, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chiêm Hóa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, các bị cáo Ma Văn M và Hà Văn M thành khẩn nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 45 phút ngày 09/3/2022, tại thôn Nà Héc, xã Yên Lập, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, các bị cáo Hà Văn M, Ma Văn M đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,160g (không phẩy một sáu không gam) Heroine, mục đích để sử dụng.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Ma Văn M, Hà Văn M đều có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nên các bị cáo M, M phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo khai báo thành khẩn; các bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo M, M thực hiện hành vi phạm tội là đồng phạm giản đơn. Bị cáo M là người đề xuất, rủ rê và đưa tiền cho M tìm mua ma túy để cùng sử dụng; bị cáo M đã hưởng ứng tích cực, sử dụng xe mô tô chở bị cáo M tìm mua ma túy, là người trực tiếp giao dịch mua ma túy, sau khi mua được ma túy các bị cáo đã sử dụng một phần, số Heroine còn lại M đưa cho M cất giấu và thống nhất để đến tối cùng nhau sử dụng. Do vậy bị cáo M và M phải chịu trách nhiệm về tổng khối lượng ma túy thu giữ của các bị cáo đã tàng trữ trái phép. Các bị cáo M và M đều có 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải có mức hình phạt tù nghiêm minh, tương xướng với hành vi phạm tội của các bị cáo tại cơ sở giam giữ một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, khối lượng chất ma tuý mà các bị cáo tàng trữ, cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp, có căn cứ.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo nhằm mục đính sử dụng, không có mục đích vụ lợi, các bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo.
[6]. Về vật chứng: Đối với số Heroine thu giữ của các bị cáo đã được niêm phong là vật chứng vụ án cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển số 22F1-287…., quá trình điều tra xác định là xe của bà Đoạn Thị L (mẹ đẻ bị cáo M), khi bị cáo Hà Văn M lấy xe đi mua ma túy, bà L không biết. Ngày 30/5/2022 Cơ quan CSĐT Công an huyện Chiêm Hóa đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu hợp pháp là bà L.
[7]. Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của các bị cáo Ma Văn M, Hà Văn M, ngày 03/6/2022 Công an huyện Chiêm Hóa đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 41+42/QĐ-XPHC, bằng hình thức phạt: Cảnh cáo.
Đối với bà Đoạn Thị L là chủ sở hữu chiếc xe mô tô, khi bị cáo Hà Văn M lấy xe đi mua ma túy, bà L không biết nên không đề cập xử lý.
Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho bị cáo Hà Văn M, do không xác định được họ và tên, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý.
[8]. Các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm; các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố các bị cáo Ma Văn M, Hà Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Ma Văn M 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 09/3/2022.
Xử phạt bị cáo Hà Văn M 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 09/3/2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong còn nguyên vẹn, mặt sau các mép dán có chữ ký xác nhận của Ma Văn M, thành phần tham gia và 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tuyên Quang, mặt trước ghi Tang vật vụ Hà Văn M, Ma Văn M, giám định ngày 10/3/2022.
Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Chiêm Hóa với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa lập ngày 12/7/2022.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các bị cáo Ma Văn M, Hà Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2022/HS-ST
Số hiệu: | 45/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về