Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 45/2021/HS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 43/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Mai Duy H, sinh năm 1990, tại Tiền Giang. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 42/2 THĐ, khu phố B, phường A, thị xã G, tỉnh Tiền Giang. Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Làm mướn; Con ông: Mai Văn P, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Ngọc H1, sinh năm 1958; Vợ, con: Chưa có;

* Tiền án: 05 lần.

- Năm 2010, Tòa án nhân dân thị xã G, tuyên phạt bị cáo Mai Duy H 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 01/2010/HS-ST ngày 08/01/2010, chưa xóa án tích.

- Năm 2013, Tòa án nhân dân thị xã G, tuyên phạt bị cáo Mai Duy H 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 14/2013/HS-ST ngày 26/4/2013, chưa xóa án tích.

- Năm 2017, Tòa án nhân dân thị xã G, tuyên phạt bị cáo Mai Duy H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 03/2017/HS-ST ngày 18/01/2017, chưa xóa án tích.

- Năm 2018, Tòa án nhân dân huyện G, tuyên phạt bị cáo Mai Duy H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 06/2018/HS-ST ngày 19/4/2018, chưa xóa án tích.

- Năm 2018, Tòa án nhân dân thành phố MT, tuyên phạt bị cáo Mai Duy H 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 110/2018/HS-ST ngày 17/10/2018, chưa xóa án tích.

* Tiền sự: 01 lần. Năm 2021, Tòa án nhân dân thị xã G quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với bị cáo Mai Duy H với thời hạn 24 tháng, theo quyết định số 15/2021/QĐ-TA ngày 26/3/2021.

Bị cáo hiện đang chấp hành quyết định xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Tiền Giang, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bùi Văn P1, sinh năm 1959 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố L, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 45 phút ngày 15/5/2021, Công an huyện G phối hợp với Công an xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang tuần tra trên tuyến đường tỉnh lộ 871C, đến đoạn đường thuộc ấp GM, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang phát hiện Mai Duy H, sinh năm 1990 ngụ khu phố B, phường A, thị xã G, tỉnh Tiền Giang đang điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B7- 572.40 chạy trên đường có biểu hiện nghi vấn nên lực lượng tiến hành chặn dừng kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo của bị cáo H đang mặc có một gói nylon màu trắng được hàn kín, bên trong có chứa chất màu trắng nghi là ma túy loại Heroin và một đoạn ống nhựa hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp, loại ma túy đá, lực lượng Công an đã tiến hành niêm phong và tạm giữ các tang vật liên quan.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói nilong màu trắng được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn nghi là ma túy loại Heroin.

- 01 (một) đoạn ống nhựa được hàn kín, bên trong có chứa tinh thể rắn nghi là ma túy tổng hợp loại Methamphetamine.

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 15,5cm, lưỡi dao dài 6,5cm, mũi nhọn, bản rộng 1,2cm, cán dao bằng nhựa màu xanh dài 09cm.

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33,5cm, lưỡi dao dài 20,5cm, mũi nhọn, bản rộng 4,3cm, trên lưỡi dao có chữ Delaware, cán dao bằng kim loại màu đen dài 13cm.

- 01 (một) cây kiềm cộng lực dài 63cm, cán bằng kim loại màu xanh dài 50cm, hai đầu cán có bọc nhựa màu đen, lưỡi kiềm bằng kim loại màu đen dài 13cm, trên lưỡi kiềm có in số “600”, “24” và “TOP”.

- 01 (một) xe mô tô mang biển số 63B7-572.40, loại xe Dream, số máy HD1P53FMHY0161028, số khung WE110-00000883.

- Tiền Việt Nam 1.205.000 đồng (một triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).

* Kết luận giám định số 94/KLGĐ ngày 22/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang xác định: Các mẫu gửi giám định trong bì thư được niêm phong có các chữ ký ghi rõ họ tên Mai Duy H, Trương Nguyễn Công B, Lưu Quan S, Nguyễn Thanh P2, Nguyễn Hoài P3 và chữ ký ghi rõ họ tên Mai Thương T, hình dấu tròn màu đỏ ghi XÃ B-HUYỆN G-TỈNH TIỀN GIANG đều là ma túy, có tổng khối lượng 0,1213 gam. Trong đó, các chất bột màu trắng, dạng cục, ký hiệu M1 có khối lượng 0,1144 gam loại Heroin; các mẫu tinh thể màu trắng, ký hiệu M2 có khối lượng 0,0069 gam loại Methamphetamine.

* Quá trình điều tra, bị cáo H khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 15/5/2021, bị cáo điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 63B7-572.40 đi mua 250.000 đồng (hai trăm năm mươi ngàn đồng) ma túy loại Heroin của một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) tại phường 3, thị xã G, tỉnh Tiền Giang để sử dụng, bị cáo mua 01 gói Heroin và được cho 01 gói ma túy đá. Sau đó, bị cáo sử dụng số ma túy vừa mua rồi cất giấu gói ma túy còn lại trong túi áo và điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát 63B7-572.40 đi đến xã K để giữ đầm tôm nH đến đoạn đường thuộc ấp GM, xã B, huyện G bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy.

Theo Biên bản xét nghiệm đối tượng nghi vấn sử dụng ma túy vào ngày 15/5/2021 tại Công an xã B, kết quả test hiển thị: Bị cáo Mai Huy H dương tính với ma túy loại Heroin.

Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện G chuyển theo hồ sơ vụ án vật chứng gồm:

- 01 (một) bì thư ký hiệu số 94 ghi ngày 22/5/2021, có các chữ ký ghi rõ họ tên: Huỳnh Thị Diệu H1 (giám định viên); Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định viên); Lê Thanh N (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG bên trong có 01 (một) gói nilong màu trắng được dán kín chứa 0,0715 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Heroin; 01 (một) vỏ bao gói nilong màu trắng và 01 vỏ đoạn ống nhựa màu trắng đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 15,5cm, lưỡi dao dài 6,5cm, mũi nhọn, bản rộng 1,2cm, cán dao bằng nhựa màu xanh dài 09cm.

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33,5cm, lưỡi dao dài 20,5cm, mũi nhọn, bản rộng 4,3cm, trên lưỡi dao có chữ Delaware, cán dao bằng kim loại màu đen dài 13cm.

- 01 (một) cây kiềm cộng lực dài 63cm, cán bằng kim loại màu xanh dài 50cm, hai đầu cán có bọc nhựa màu đen, lưỡi kiềm bằng kim loại màu đen dài 13cm, trên lưỡi kiềm có in số “600”, “24” và “TOP” - 01 (một) xe mô tô mang biển số 63B7-572.40 loại xe Dream, số máy HD1P53FMHY0161028, số khung WE110-00000883.

- Tiền Việt Nam 1.205.000 đồng (một triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).

Kết luận giám định số 680/KTHS-Đ2 ngày 16/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Tiền Giang đối với số khung và số máy của xe mô tô 02 bánh, màu nâu, mang biển kiểm soát 63B7-572.40 xác định:

- Số khung:

+ Trước giám định: WE110-00000883.

+ Sau giám định: Phát hiện dấu vết mài mòn, không đọc được số nguyên thủy, số khung WE110-00000883 là số đóng mới.

- Số máy: HD1P53FMH-Y0161028 trước và sau giám định không đổi.

Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 14/6/2021 của Công an huyện G, sau khi tra cứu nguồn gốc xe theo thông tin biển kiểm soát 63B7-572.40 cho kết quả: Biển kiểm soát số 63B7-572.40 là biển số của xe mô tô có số máy VLVN252FMH0067774, số khung VITPCG002YVN0069774 do ông Bùi Văn P1 ngụ khu phố L, thị trấn V, huyện G, tỉnh Tiền Giang đứng tên chủ sở hữu và hiện ông P1 vẫn còn đang sử dụng xe mô tô trên.

Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 18/6/2021 của Công an huyện G, sau khi tra cứu nguồn gốc xe theo thông tin số khung WE110-00000883 cho kết quả: Không tìm thấy dữ liệu tra cứu theo chỉ tiêu tìm kiếm.

* Tại Cáo trạng số 46/CT-VKS-HS ngày 07/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Mai Duy H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung Cáo trạng và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Mai Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Mai Duy H từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu hủy đối với:

- 01 (một) bì thư ký hiệu số 94 ghi ngày 22/5/2021, có các chữ ký ghi rõ họ tên: Huỳnh Thị Diệu H1 (giám định viên); Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định viên); Lê Thanh N (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG bên trong có 01 (một) gói nilong màu trắng được dán kín chứa 0,0715 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Heroin; 01 (một) vỏ bao gói nilong màu trắng và 01 vỏ đoạn ống nhựa màu trắng đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

- 09 (chín) ống kim tiêm hiệu BRAUN, thông số 30Gx1/2, kích thước (0,3mmx12mm) 1ml (chưa sử dụng).

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 15,5cm, lưỡi dao dài 6,5cm, mũi nhọn, bản rộng 1,2cm, cán dao bằng nhựa màu xanh dài 09cm.

- 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33,5cm, lưỡi dao dài 20,5cm, mũi nhọn, bản rộng 4,3cm, trên lưỡi dao có chữ Delaware, cán dao bằng kim loại màu đen dài 13cm.

- 01 (một) cây kiềm cộng lực dài 63cm, cán bằng kim loại màu xanh dài 50cm, hai đầu cán có bọc nhựa màu đen, lưỡi kiềm bằng kim loại màu đen dài 13cm, trên lưỡi kiềm có in số “600”, “24” và “TOP”.

* Tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với: 01 (một) xe mô tô mang biển số 63B7-572.40 loại xe Dream, số máy HD1P53FMHY0161028, số khung WE110- 00000883.

* Trả lại bị cáo tiền Việt Nam 1.205.000 đồng (một triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).

* Tại phiên tòa, bị cáo Mai Duy H đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên, không tranh luận đối với nội dung luận tội của Viện kiểm sát và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người liên quan ông Bùi Văn P1 có đơn xin vắng mặt. Xét thấy, trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của ông về những vấn đề liên quan, ông không có yêu cầu gì trong vụ án này, việc ông vắng mặt tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử và bị cáo, đại diện Viện kiểm sát cũng đồng ý về việc xét xử vắng mặt ông tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Mai Duy H đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Theo đó, khoảng 16 giờ ngày 15/5/2021 tại ấp GM, xã B, huyện G, tỉnh Tiền Giang bị cáo Mai Duy H đã tàng trữ trái phép 0,1213 gam ma túy, trong đó có 0,1144 gam loại Heroin và 0,0069 gam loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Trước đó, bị cáo H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 110/2018/HS-ST ngày 17/10/2018 của TAND thành phố MT với tình tiết tăng nặng là tái phạm tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 06/10/2019 nhưng chưa được xóa án tích bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

“Điều 249. Tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

...2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...o) Tái phạm nguy hiểm;”

[4] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thừa khả năng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm minh nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, ma túy là chất độc có tính gây nghiện, việc nghiện ngập là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các loại tội phạm khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; cũng như xét về nhân thân, dù bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng nhưng bị cáo có nhân thân xấu, có 05 tiền án về tội trộm cắp tài sản và 01 tiền sự về sử dụng trái phép chất ma túy; sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo vẫn không chịu cãi sửa, tuân thủ pháp luật và trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần thiết phải xử phạt bị cáo mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi đối với hành vi phạm tội đã thực hiện là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét cân nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình để thể hiện sự khoan hồng của chính sách pháp luật hình sự Nhà nước ta.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,0715 gam ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ và 09 (chín) ống kim tiêm hiệu BRAUN, thông số 30Gx1/2, kích thước (0,3mmx12mm) 1ml (chưa sử dụng) mà bị cáo mua để sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01(một) xe mô tô mang biển số 63B7-572.40, loại xe Dream, số máy HD1P53FMHY0161028, số khung WE110-00000883 không rõ nguồn gốc là phương tiện phạm tội vì bị cáo sử dụng để đi mua ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với tiền Việt Nam 1.205.000 đồng (một triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng) là tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nên cần trả lại bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với:

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 15,5cm, lưỡi dao dài 6,5cm, mũi nhọn, bản rộng 1,2cm, cán dao bằng nhựa màu xanh dài 09cm.

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33,5cm, lưỡi dao dài 20,5cm, mũi nhọn, bản rộng 4,3cm, trên lưỡi dao có chữ Delaware, cán dao bằng kim loại màu đen dài 13cm.

+ 01 (một) cây kiềm cộng lực dài 63cm, cán bằng kim loại màu xanh dài 50cm, hai đầu cán có bọc nhựa màu đen, lưỡi kiềm bằng kim loại màu đen dài 13cm, trên lưỡi kiềm có in số “600”, “24” và “TOP” Là tài sản của bị cáo, không liên quan đến tội phạm nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

[7] Đối với việc ông Bùi Văn P1 đứng tên chủ sở hữu xe mô tô mang biển số 63B7-572.40 nhưng hiện ông P1 vẫn còn đang sử dụng xe mô tô này và ông không có yêu cầu gì trong vụ án này nên không đặt ra xem xét.

[8] Đối với người bán ma túy cho bị cáo tại phường A, thị xã G, tỉnh Tiền Giang hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện G chưa làm việc được và sẽ tiếp tục điều tra, xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

[9] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Mai Duy H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào: Điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tuyên bố: Bị cáo Mai Duy H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Mai Duy H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy đối với:

+ 01 (một) bì thư ký hiệu số 94 ghi ngày 22/5/2021, có các chữ ký ghi rõ họ tên: Huỳnh Thị Diệu H1 (giám định viên); Nguyễn Quốc P (trợ lý giám định viên); Lê Thanh N (bên nhận) và hình dấu tròn màu đỏ có nội dung: PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ CÔNG AN TỈNH TIỀN GIANG bên trong có 01 (một) gói nilong màu trắng được dán kín chứa 0,0715 gam là ma túy còn lại sau giám định, loại Heroin; 01 (một) vỏ bao gói nilong màu trắng và 01 vỏ đoạn ống nhựa màu trắng đều đã bị cắt một đầu để lấy mẫu giám định.

+ 09 (chín) ống kim tiêm hiệu BRAUN, thông số 30Gx1/2, kích thước (0,3mmx12mm) 1ml (chưa sử dụng).

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước đối với:

+ 01 (một) xe mô tô mang biển số 63B7-572.40 loại xe Dream, số máy HD1P53FMHY0161028, số khung WE110-00000883.

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 15,5cm, lưỡi dao dài 6,5cm, mũi nhọn, bản rộng 1,2cm, cán dao bằng nhựa màu xanh dài 09cm.

+ 01 (một) con dao bằng kim loại dài 33,5cm, lưỡi dao dài 20,5cm, mũi nhọn, bản rộng 4,3cm, trên lưỡi dao có chữ Delaware, cán dao bằng kim loại màu đen dài 13cm.

+ 01 (một) cây kiềm cộng lực dài 63cm, cán bằng kim loại màu xanh dài 50cm, hai đầu cán có bọc nhựa màu đen, lưỡi kiềm bằng kim loại màu đen dài 13cm, trên lưỡi kiềm có in số “600”, “24” và “TOP”.

- Trả lại bị cáo tiền Việt Nam 1.205.000 đồng (một triệu hai trăm lẻ năm ngàn đồng).

3. Về án phí: Bị cáo Mai Duy H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

574
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 45/2021/HS-ST

Số hiệu:45/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về