Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 44/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 17 tháng 4 năm 2024, Toà án nhân dân huyện C, tỉnh S xét xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại phòng xét xử Toà án nhân dân huyện C, tỉnh S gồm: Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh S gồm có: Bị cáo, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, Cán bộ chiến sỹ thuộc cơ sở giam giữ đối với vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2024/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2024/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo: Lưu Viết C (tên gọi khác: Không), sinh ngày 15/9/1978 tại thành phố L, tỉnh S; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Đ, xã H, thành phố L, tỉnh S; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Viết V và bà Hà Thị C1; có vợ là Đoàn Thị H và 02 con (lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2004); tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án số 97/2017/HSST ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh S xử phạt bị cáo Lưu Viết C 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma tuý, chưa được xoá án tích; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử lý vi phạm hành chính, đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa bị xử lý kỷ luật. Bị cáo bị bắt tạm giam, tại Nhà tạm giữ Công an huyện C, tỉnh S từ ngày 28/12/2023, tạm giam từ ngày 02/01/2024 cho đến nay. Có mặt.

- Người chứng kiến: Ông Lý Văn L; trú tại: K, thị trấn C, huyện C, tỉnh S. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ 50 phút ngày 28/12/2023 Công an xã T, huyện C, tỉnh S phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy đang làm nhiệm vụ tại thôn N, xã T, huyện C, tỉnh S phát hiện trong ngôi nhà hoang có một nam thanh niên có nhiều biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, nam thanh niên khai nhận có họ tên là Lưu Viết C đồng thời tự nguyện giao nộp 03 (ba) gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên trong các gói giấy đều chứa chất bột màu trắng, C tự khai nhận đó là chất ma túy Heroine, mục đích mua về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong thu giữ vật chứng gồm: 03 (ba) gói giấy nhỏ màu trắng có dòng kẻ, bên trong các gói giấy đều chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Lưu Viết C khai nhận: Bản thân C nghiện ma túy từ năm 2014. Từ khi sử dụng ma túy, thông qua những người nghiện ma túy mách bảo, C biết một người đàn ông làm nghề xe ôm (không biết tên, tuổi, địa chỉ) ở khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh S bán ma túy. Khi có nhu cầu sử dụng ma túy, C thường đến khu vực trên để mua ma túy với người đàn ông này nhiều lần, C không nhớ số lần và số tiền cụ thể, chỉ nhớ lần gần nhất là khoảng 08 giờ ngày28/12/2023 C đi bộ từ nhà đến Cơ sở điều trị Methadone số 009, thuộc thị trấn Đ, huyện C để uống thuốc Methadone, sau khi uống thuốc xong C đến địa chỉ trên hỏi người đàn ông này mua 300.000 đồng tiền ma túy, người này đưa cho C 03 (ba) gói giấy màu trắng có dòng kẻ, bên trong có chứa chất ma túy Heroin. Sau khi mua được ma túy C đi về đến thôn N, xã T, huyện C, tỉnh S vào một ngôi nhà hoang để sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang.

Bản kết luận giám định số 163/KL-KTHS ngày 02/01/2024 của Phòng K Công an tỉnh L kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định đều là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,153 gam (đã trừ bì).

Tại Bản cáo trạng số 25/CT-VKS ngày 18/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh S truy tố bị cáo Lưu Viết C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố và không thay đổi, bổ sung lời khai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh S giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lưu Viết C và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lưu Viết C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lưu Viết C từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi tư) tháng tù giam.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì ghi chữ “Quả tang Lưu Viết C” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S tại phần giáp lại mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,134 gam chất ma túy heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 03 (ba) vỏ bao gói giấy cũ.

Về án phí: Bị cáo Lưu Viết C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo không nói lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người chứng kiến ông Lý Văn L vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của người chứng kiến không ảnh hưởng đến việc xét xử vì trong hồ sơ đã có đầy đủ lời khai của họ. Do đó, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt người chứng kiến theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, do đó có căn cứ xác định: Hồi 09 giờ 50 ngày 28/12/2023, Công an xã T phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện C đã phát hiện, bắt quả tang Lưu Viết C có hành vi tàng trữ trái phép 03 (ba) gói ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,153 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Lưu Viết C đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh S truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Lưu Viết C thuộc trường hợp nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về ma túy, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội, hành vi đó cũng là nguyên nhân gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, đủ khả năng để nhận thức việc tàng trữ trái phép chất ma túy là trái quy định của pháp luật nhưng do nghiện ma tuý bị cáo đã phạm tội.

[5] Để có căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo như sau:

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lưu Viết C có 01 tiền án nhưng chưa được xoá án tích. Do vậy, bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án, chưa được xoá án tích nên xác định bị cáo có nhân thân xấu.

[9] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm răn đe đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

[10] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng...’’. Tuy nhiên trong biên bản xác minh về tài sản đối với bị cáo Lưu Viết C thể hiện bị cáo nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị, thu nhập không ổn định. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Lưu Viết C. [11] Đối với người đàn ông bán ma tuý cho bị cáo Lưu Viết C tại khu vực khu G, thuộc thị trấn Đ, huyện C, tỉnh S ngày 28/12/2023 do bị cáo không biết họ, tên, địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh, làm rõ để xử lý trong vụ án, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì ghi chữ “Quả tang Lưu Viết C” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S tại phần giáp lại mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,134 gam chất ma túy heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 03 (ba) vỏ bao gói giấy cũ, là chất cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[13] Về án phí: Bị cáo Lưu Viết C là người bị kết án nên phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[14] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh S tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử và quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Viết C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Lưu Viết C 02 (hai) năm tù giam.Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 28/12/2023.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo Lưu Viết C.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì ghi chữ “Quả tang Lưu Viết C” (cũ), có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H2, trợ lý giám định và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S tại phần giáp lại mới. Bên trong có 01 (một) gói giấy (cũ) đựng 0,134 gam chất ma túy heroine (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định hết) và 03 (ba) vỏ bao gói giấy cũ.

(Các vật chứng trên được ghi chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/3/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh S).

4. Về án phí: Bị cáo Lưu Viết C phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

53
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2024/HS-ST

Số hiệu:44/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về