Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 44/2023/HS-ST NGÀY 29/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29/11/2023, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2023/TLST-HS ngày 15/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2023/QĐXXST-HS ngày 16/11/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hứa Văn H; sinh năm 1985, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn lớp 9/12; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hứa Văn C (Đã chết) và bà Hoàng Thị L; vợ: Chu Thị Th và 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 05/10/2023; chuyển tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/10/2023 đến nay, hiện đang giam giữ, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Chu Thị Th, sinh năm 1987 – vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn T, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hứa Văn H, làm nghề lái xe và là người nghiện ma túy từ cuối năm 2022 cho đến nay. Vào khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 05 tháng 10 năm 2023, chị Lô Thị B, sinh năm 1991, trú tại thôn V, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, thuê Hứa Văn H lái xe ô tô tải chở chị B đi mua sầu riêng ở khu vực huyện KB, tỉnh Đắk Lắk. Sau đó, H sử dụng xe ô tô 47C - 240.xx của gia đình, chở chị B đi thu mua sầu riêng.

Quá trình sử dụng ma túy, H biết tại khu vực huyện E, tỉnh Đắk Lắk có đối tượng tên T (Không rõ nhân thân, lai lịch) có bán ma túy, nên vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 05/10/2023, trong lúc chờ người xếp sầu riêng lên xe, H nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó, H đi ra đường Hồ Chí Minh (Quốc lộ 14) đi nhờ xe người dân đến khu vực huyện E, tìm đối tượng tên để mua ma túy. Khi đi đến cầu thuộc địa phận xã X, huyện E, thì thấy có một người đàn ông đang đứng bên đường, nên H xuống xe rồi đi đến hỏi và người này nói là T có bán ma túy, thì H hỏi mua 5.000.000 đồng ma túy Heroin, T đồng ý bán. Sau đó H đưa 5.000.000 đồng cho T và T đưa cho H 01 gói nylon bên trong có chứa ma túy, rồi H đi bộ về hướng huyện KB, tỉnh Đắk Lắk. Khi đi được một đoạn, H lấy một ít ma túy trong gói ma túy mua được để sử dụng và lấy giấy bạc trong bao thuốc lá phân chia ra được 10 gói nhỏ, bỏ vào gói nylon ban đầu, rồi cất giấu trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc để khi nào có nhu cầu thì lấy ra sử dụng, rồi đón xe đi nhờ về lại huyện KB. Sau khi chị B mua sầu riêng, H điều khiển xe ô tô chở chị B đến khu vực trung tâm thị xã B để tiếp tục mua sầu riêng. Đến khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường T, thuộc tổ dân phố M, phường A, thị xã B, thì bị lực lượng công an phát hiện và bắt quả tang thu giữ tang vật phạm tội.

Bản kết luận giám định số 1244/KL-KTHS ngày 12/10/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Các cục chất rắn màu trắng đựng trong 01 (một) gói nylon và 10 (mười) gói giấy bạc được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,0172 gam (Mẫu vật còn lại sau giám định 1,9705 gam), loại Heroine (Heroin) có tên khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Vật chứng vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ thu giữ gồm: 01 (một) gói nylon và 10 (mười) gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy, có tổng khối lượng 2,0172 gam, loại Heroine (Mẫu vật còn lại sau giám định 1,9705 gam).

Bản cáo trạng số 41/CT-VKSBH ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Hứa Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ giữ quyền công tố trình bày luận tội và tranh luận xác định: Giữ nguyên nội dung cáo trạng số 41/CT-VKSBH ngày 13/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk.

Về tội danh: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hứa Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Hứa Văn H từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon và 10 (mười) gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy, có tổng khối lượng 2,0172 gam, loại Heroine (Mẫu vật còn lại sau giám định 1,9705 gam).

Đối với xe ô tô biển số 47C - 240.xx, quá trình điều tra xác định bị cáo không sử dụng chiếc xe trên vào mục đích phạm tội, nên CQCSĐT Công an thị xã Buôn Hồ đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bị cáo Hứa Văn H và bà Th là có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với người đàn ông tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho Hứa Văn H, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh, nhưng chưa rõ nhân thân, lai lịch nên chưa đủ căn cứ để xử lý, hiện nay đang tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, nếu đủ căn cứ thì xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo Hứa Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với hành vi mà nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Buôn Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hứa Văn H khai nhận: Do ý thức coi thường pháp luật và động cơ cá nhân, khoảng 17 giờ 45 phút ngày 05/10/2023, tại tổ dân phố M, phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, Hứa Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 2,0172 gam, loại Heroine, thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Vì vậy Viện kiểm sát truy tố và kết luận bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng, bị cáo không tranh luận gì với đại diện viện kiểm sát. Do đó, hành vi của bị cáo Hứa Văn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c, Heroine, ........ có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết được rằng chất ma túy là chất gây nghiện, dược liệu hướng thần do Nhà nước độc quyền quản lý. Nhà nước nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán….. trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hành vi phạm tội là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác như cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản …. nhưng bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của mình gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét tính chất vụ án, tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử, xét thấy áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định để bị cáo học tập, cải tạo trở thành người công dân ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần giáo dục phòng ngừa tội phạm trong toàn xã hội.

[7] Xét quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Buôn Hồ tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, về xử lý vật chứng, là có căn cứ, phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) gói nylon và 10 (mười) gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy, có tổng khối lượng 2,0172 gam, loại Heroine (mẫu vật còn lại sau giám định 1,9705 gam). Hội đồng xét xử xét thấy đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Các vấn đề khác của vụ án:

[9.1] Đối với xe ô tô biển số 47C - 240.xx, là tài sản hợp pháp của bị cáo Hứa Văn H và vợ là bà Chu Thị Th. Quá trình điều tra xác định bị cáo không sử dụng chiếc xe trên vào mục đích phạm tội, nên CQCSĐT Công an thị xã Buôn Hồ đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho bị cáo Hứa Văn H và bà Th là phù hợp.

[9.2] Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho Hứa Văn H, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh, nhưng chưa rõ nhân thân, lai lịch nên chưa đủ căn cứ để xử lý. Do đó, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ nếu có căn cứ thì xử lý sau là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo Hứa Văn H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hứa Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[1] Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hứa Văn H 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt người phạm tội quả tang (ngày 05/10/2023).

[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon và 10 (mười) gói giấy bạc bên trong có chứa ma túy, có tổng khối lượng 1,9705 gam, loại Heroine (mẫu vật còn lại sau giám định).

(Vật chứng có đặc điểm cụ thể như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Buôn Hồ và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Buôn Hồ ngày 16/11/2023).

Chấp nhận cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo Hứa Văn H và bà Chu Thị Th chiếc xe ô tô biển kiểm soát 47C - 240.xx theo Quyết định xử lý vật chứng số 22 ngày 10/11/2023.

[3] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1, khoản 3 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hứa Văn H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2023/HS-ST

Số hiệu:44/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Buôn Đôn - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về