TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 44/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/9/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2022/TLST-HS ngày 09/9/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST- HS ngày 15/9/2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức T; Sinh năm 1996; Nơi sinh và nơi cư trú: Thôn Trung Đại L, xã Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Đức T1 (đã chết) và bà Trần Thị H; Vợ con: Chưa có; Tiền sự: Không;
Tiền án: Ngày 10/6/2020 Nguyễn Đức T bị Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 22 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 21/2020/HS-ST. Ngày 27/7/2020 thi hành xong nghĩa vụ thi hành án dân sự. Ngày 12/11/2021 chấp hành xong án phạt tù.
Nhân thân: Ngày 24/10/2014 Nguyễn Đức T bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 816/HSPT. Ngày 14/12/2014 chấp hành xong án phạt tù. Ngày 28/7/2015 chấp hành xong nghĩa vụ thi hành án dân sự; Ngày 22/7/2016 Nguyễn Đức T bị Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án số 210/HSST. Ngày 06/8/2017 chấp hành xong án phạt tù. Ngày 22/12/2017 chấp hành xong nghĩa vụ thi hành án dân sự.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/6/2022 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Hoàng Văn B; Sinh năm: 2000; Nghề nghiệp: Công nhân; Nơi đăng ký thường trú: Khu 10 xã Tạ X, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ; Nơi đăng ký tạm trú: Xã Quang Vĩnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Hữu Q; Sinh năm: 1978; Nghề nghiệp: Công nhân; Địa chỉ: Thôn Trung Đại L, xã Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.
3. Chị Trần Thị H; Sinh năm 1959; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn Trung Đại L, xã Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 24/6/2022, tổ công tác Công an huyện Can Lộc phối hợp với Công an xã Khánh Vĩnh Yên tiến hành tuần tra trên địa bàn thôn Đại Bản, xã Khánh Vĩnh Yên, phát hiện Nguyễn Đức T có nhiều biểu hiện nghi vấn. Khi tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì T dừng xe, bỏ chạy và ném một vật vào bụi cây gần lề đường. Sau đó T tự nguyện nhặt lại vật đã ném (là bao thuốc lá chứa tinh thể màu trắng và một chiếc cóng bằng thủy tinh) và giao cho lực lượng chức năng, thừa nhận là ma túy mua với giá 500.000 đồng từ một người đàn ông không quen biết để sử dụng. Phiếu trả kết quả xét nghiệm ngày 25/6/2022 của Trung tâm y tế huyện Can Lộc thể hiện Nguyễn Đức T dương tính Methamphetamine. Quá trình điều tra đã xác định được Nguyễn Đức T đã mượn xe mô tô của mẹ là bà Trần Thị H và rủ Hoàng Văn B đi chơi. Trước khi đi thì T mượn của anh Nguyễn Hữu Q 800.000 đồng. Trên đường đi chơi, T ghé vào trạm xăng và để B ở lại trạm xăng còn một mình T đi mua ma túy.
Bản Kết luận giám định số 666/GĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi ni lông màu trắng, có viền màu xanh kích thước (1x1,5) cm là ma túy, là Methamphetamine có khối lượng 0,2101gam (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ) Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc đã thu giữ từ bị cáo: 01 gói ni lông màu trắng, viền màu xanh kích thước (1x1,5)cm bên trong có chứa 0,2101gam chất ma túy Methamphetamine (đã lấy 0,0172gam làm mẫu giám định, còn lại 0,1929 gam Methamphetamine), 01 chiếc cóng làm bằng thủy tinh, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555 màu xanh dán băng dính màu đen, 01 xe mô tô nhãn hiện Honda super Dream, không mang biển kiểm soát, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy A13 đã qua sử dụng và 310.000 đồng. Chiếc xe mô tô đã được trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Trần Thị Hà còn số vật chứng còn lại hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Can Lộc.
Ngày 09/9/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc ban hành bản kết luận điều tra số 39/KLĐT, đề nghị truy tố Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Ngày 12/9/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc truy tố Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự tại Bản cáo trạng số 44/CT-VKS-CL.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên các lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố; thừa nhận bản thân sử dụng ma túy từ năm 2016, loại ma túy thường sử dụng là ma túy đá. Bị cáo trình bày việc liên hệ mua ma túy chỉ có bị cáo thực hiện, không có ai biết và cùng tham gia.
Lời khai có trong hồ sơ của bà H, anh B, anh Q đều thể hiện những người này không biết việc bị cáo sử dụng xe máy và mượn tiền để đi mua ma túy.
Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 32; Điều 38; tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T từ 20 đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2022; Phạt bổ sung từ 5.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng; Tịch thu tiêu hủy 0,1929 gam Methaphemtamin niêm phong trong phong bì thư màu trắng trên có dòng chữ “Công an tỉnh Hà Tĩnh” và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, 01chiếc cóng thủy tinh; Tịch thu hóa giá sung Ngân sách nhà nước điện thoại Samsung Galaxy màu đen A13 của bị cáo; Trả lại cho bị cáo số tiền 310.000 đồng; Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.
[2] Về trách nhiệm hình sự:
- Xét hành vi của bị cáo:
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 24/6/2022 tại địa phận thôn Đại Bản, xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc, Nguyễn Đức T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2101 gam ma túy Methamphetamine. Bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Việc khởi tố, truy tố, xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai.
Bị cáo có nhân thân xấu lại tiếp tục tái phạm nên xử phạt bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.
- Xét hành vi của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Trần Thị H là người cho T mượn xe mô tô để đi chơi nhưng T đã tự ý sử dụng để đi mua chất ma túy tuy nhiên bà H không biết T sử dụng xe mô tô vào mục đích phạm tội nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với bà H. Anh Hoàng Văn B là người cùng đi chơi với bị cáo vào tối ngày 24/6/2022 nhưng khi T gọi điện thoại B không biết việc T gọi để hỏi mua ma túy, khi B đứng chờ để T điều khiển xe đi mua ma túy thì B cũng hoàn toàn không biết T đi đâu, làm gì. Do đó không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với Hoàng Văn B.
Anh Nguyễn Hữu Q là người đã cho Nguyễn Đức T vay số tiền 800.000 đồng qua hình thức chuyển khoản và T đã sử dụng số tiền này để mua ma túy.
Tuy nhiên, khi vay tiền T không nói với Q là để đi mua ma túy sử dụng và Q cũng hoàn toàn không biết việc T đi mua ma túy nên không có căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Hữu Q.
[3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo chưa được xóa án tích về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 12/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ lại tiếp tục phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và có bố là thương binh hạng 4/4 nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng: Xử lý vật chứng như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.
[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1, 5 Điều 249; khoản 1 Điều 32; Điều 38; tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T: 20 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/6/2022; Xử phạt bổ sung đối với bị cáo: 5.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,1929 gam Methaphemtamin niêm phong trong phong bì thư màu trắng trên có dòng chữ “Công an tỉnh Hà Tĩnh” và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu 555, 01 chiếc cóng thủy tinh; Tịch thu hóa giá sung Ngân sách nhà nước điện thoại Samsung Galaxy màu đen A13 của bị cáo; Trả lại cho bị cáo 310.000 đồng. Tình trạng đặc điểm vật chứng có tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2022 giữa Công an huyện Can Lộc và Chi cục thi hành án dân sự huyện Can Lộc.
Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-ST
Số hiệu: | 44/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về