Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA.

BẢN ÁN 43/2024/HS-ST NGÀY 17/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Tòng Văn Đ, sinh 23/3/1984; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản Ỏ, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Đảng phái: không; con ông Tòng Văn C (đã chết) và bà Tòng Thị S (đã chết); có vợ Lường Thị T, sinh 1988 và 02 con, con lớn nhất sinh 2006, con nhỏ nhất sinh 2008; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: chưa có án tích hoặc xử lý, xử phạt vi phạm hành chính khác; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/10/2023 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo Đ: Ông Lò Văn Đ, là Luật sư thực hiện trợ giúp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tòng Văn L, sinh 1985; nơi cư trú: Bản P, xã M, huyện M, tỉnh Sơn La; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 20 phút, ngày 04/10/2023, Tòng Văn Đ điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Biển kiểm soát (BKS) 26K7-X7 đến bản Ỏ, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La thì gặp tổ công tác Công an xã H làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra. Khi bị kiểm tra Tòng Văn Đ đã giao nộp 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng và khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền.

Tòng Văn Đ khai về nguồn gốc ma tuý: khoảng 9 giờ 30 phút ngày 04/10/2023, điểu khiển xe mô tô BKS 26K7-X7 đến bản Pú Và, xã Chế Tạo, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, thì gặp một người đàn ông (không biết họ tên, tuổi, địa chỉ) hỏi và mua được 01 gói ma tuý với số tiền 100.000VNĐ, cất giữ mục đích để sử dụng; xe mô tô là tài sản của anh Tòng Văn L.

Ngày 04/10/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Tòng Văn Đ, như sau: Cục bột màu trắng trong gói nilon màu trắng có khối lượng là 0,10 gam, lấy hết làm mẫu giám định ký hiệu Đ. Còn lại: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 06/10/2023 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số 2395/KL-KTHS, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; loại Heroine”.

Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Đại nhưng không thu thập được tài liệu nào khác ngoài lời khai của Đại.

Thực hiện xác minh nguồn gốc phương tiện đối với xe mô tô gắn BKS 26K7-X7 xác định không là vật chứng trong vụ án khác; anh Tòng Văn L xác định: chiếc xe máy bị thu và tạm giữ là tài sản của anh Lai cho gia đình Đại quản lý và sử dụng, việc Tòng Văn Đ sử dụng khi tàng trữ trái phép chất ma túyậinh Lai không biết, đề nghị xin nhận lại chiếc xe.

Bản cáo trạng số 07/CT-VKS-ML ngày 22/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Tòng Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua, cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Tòng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tòng Văn Đ từ 16 đến 20 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a, khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu huỷ: 01 vỏ phong bì và 01 mảnh nilon; trả lại xe mô tô BKS 26K7-X7 cho Tòng Văn L. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Đ tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật hạn chế, khối lượng ma tuý không lớn nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức hình phạt thấp nhất từ 14 đến 18 tháng tù; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên đề nghị miễn án phí cho bị cáo; các nội dung khác nhất trí với đề nghị của Viện kiểm sát.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng mức án thấp nhất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Tòng Văn L tranh luận: xin nhận lại xe mô tô nhãn hiệu BKS 26K7-X7 và không yêu cầu gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo đối đáp tranh luận đều giữ nguyên ý kiến tranh luận; bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Hồi 11 giờ 20 phút, ngày 04/10/2023 bị cáo Tòng Văn Đ điều khiển xe mô tô BKS 26K7-X7 đến bản Ỏ, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La bị Tổ công tác Công an xã H làm nhiệm vụ phát hiện Tòng Văn Đ cất giữ 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng Đ khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số 2395/KL-KTHS ngày 06/10/2023, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu Đ là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,10 gam; loại Heroine”. Như vậy, Tòng Văn Đ là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tòng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vì sử dụng ma túy bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi cất giấu, cất giữ trái phép chất ma tuý có tổng khối lượng 0,10 gam là nguy hiểm cho xã hội; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do sử dụng ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt lương tâm, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, nhận thức pháp luật hạn chế, khối lượng ma tuý không lớn, mục đích tàng trữ trái phép ma túy để sử dụng, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), chính quyền địa phương xác định bị cáo chưa chấp hành quy định của địa phương nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/10/2023 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của bị cáo nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[9] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,10 gam Heroine không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 01 vỏ phong bì, 01 mảnh nilon là vật dụng bị cáo sử dụng cất giữ trái phép chất ma túy, vật chứng không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 26K7-X7 là tài sản thuộc quyền sở hữu của anh Tòng Văn L; anh L không biết việc bị cáo sử dụng đi phạm tội nên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.

[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Tòng Văn Đ 17 (Mười bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (04/10/2023); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 vỏ phong bì; 01 mảnh nilon của Tòng Văn Đ;

Trả l ại 01 xe mô tô nhan hiêu Honda Wave BKS 26K7-X7 cho anh Tòng Văn L (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/12/2023 giữa Cơ quan điều tra Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

4. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đ.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/01/2024).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự;Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2024/HS-ST

Số hiệu:43/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về