Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2023 Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2023/HSST ngày 26 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST-HS ngày 01/8/2023 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lưu Văn S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: nam; Sinh năm: 1970, tại tỉnh Thái Bình; Nơi ĐKHKTT: bản K, xã G, huyện Đ, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/10; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Lưu Văn T (đã chết) và con bà Phạm Thị G (đã chết); vợ: Lương Thị V (sinh năm 1971) và có 03 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 08/10/2003 Lưu Văn S bị Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 03/2003/ST. Ngày 07/01/2005 Lưu Văn S đã chấp hành xong hình phạt tù và chấp hành xong các quyết định khác của bản án nên đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/02/2023 tại Nhà tạm giữ, Công an thành phố Lai Châu cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 08 giờ ngày 27/02/2023, Lưu Văn S đang đi bộ một mình ở đầu bản K, xã G, huyện Đ, tỉnh Lai Châu thì gặp và xin đi nhờ xe máy một người phụ nữ, không rõ tên, địa chỉ đến thành phố Lai Châu để tìm mua ma túy. Khi đến khu vực phía sau Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, thuộc tổ 27, phường Đông Phong, Thành phố Lai Châu, S đi bộ để tìm mua ma túy. Khi S đang đi bộ thì gặp một người đàn ông, nhìn giống người nghiện ma túy ( S không biết tên, địa chỉ của người này) nên S nhờ người này mua ma túy hộ, người này đồng ý. S đưa cho người đàn ông này 200.000 đồng, nhận tiền người đàn ông đi khoảng 15 phút thì quay lại đưa cho S 01 gói ma túy (loại heroine) được gói bên ngoài bằng 02 lớp nilon (lớp ngoài là 01 mảnh màu xanh, lớp trong là 01 mảnh nilon màu hồng). Nhận được ma túy, S cất vào trong túi quần bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ về nhà. Khi đang đi trên đường tỉnh lộ 136, thuộc bản Cắng Đắng, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác Công an thành phố Lai Châu kiểm tra. S tự giác lấy từ trong túi quần bên phải ra 01 gói được gói bên ngoài bằng hai lớp nilon như trên, bên trong có chứa chất bột khô màu trắng giao nộp cho tổ công tác và khai nhận vật chứng giao nộp trên là ma túy, loại Heroine của S tàng trữ để sử dụng.

Theo Kết luận giám định số 16/KLGĐ ngày 27/02/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an thành phố Lai Châu kết luận 01 gói chất bột màu trắng thu giữ của Lưu Văn S có khối lượng là 0,33 gam. Theo Kết luận giám định số 248/KL- KTHS ngày 01/03/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: mẫu chất bột, màu trắng gửi đến giám định là ma túy, loại Heroin.

Quá trình điều tra Lưu Văn S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Các vấn đề khác của vụ án:

Theo lời khai của Lưu Văn S, nguồn gốc số Heroine mà S tàng trữ là do S mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, tại khu vực sau Bệnh viện đa khoa tỉnh Lai Châu, ngoài lời khai của S Cơ quan điều tra cũng không thu thập được thêm tài liệu chứng cứ khác nên không có cơ sở xác minh, điều tra làm rõ đối với đối tượng này.

Đối với người phụ nữ đã cho Lưu Văn S đi nhờ xe máy khi S đi mua Heroine, quá trình điều tra S khai nhận những người này không liên quan đến hành vi phạm tội của S và S không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Bản cáo trạng số 34/CT - VKSTP ngày 26/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Lưu Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các kết luận giám định và bản cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, v khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lưu Văn S từ 13 đến 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 27/02/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy 0,19 gam Heroine còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu hồng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang Lưu Văn S.

Đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lưu Văn S không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu.

Lời nói sau cùng: bị cáo Lưu Văn S đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Trên cơ sở lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở để khẳng định:

Vào hồi 09 giờ 30 phút ngày 27/02/2023 tại bản Cắng Đắng, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu Lưu Văn S đang tàng trữ trái phép 0,33 gam heroine, với mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an thành phố Lai Châu yêu cầu kiểm tra, phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bị cáo Lưu Văn S là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy: Hành vi của bị cáo Lưu Văn S cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điều khoản này quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm… c, Heroine… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;

… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, …hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo S đã bị Tòa án xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và phải đi chấp hành án, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, năm 2015 bị cáo được Chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen theo Quyết định số 758/QĐ-UBND ngày 24/7/2015 vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua yêu nước giai đoạn 2010 - 2015, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do công việc và thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị để đảm bảo thi hành hình phạt bổ sung. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 0,33 gam Heroine thu giữ của S, Cơ quan điều tra đã trích 0,14 gam gửi đi giám định không hoàn lại mẫu vật, còn lại 0,19 gam Heroine là chất Nhà nước cấm lưu hành, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu hồng dùng để gói ma túy và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng là vật không có giá trị xét cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, đúng pháp luật, nên cần chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s, v khoản 1 Điều 51; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Khoản 2 Điều 136, Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lưu Văn S 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/02/2023.

3. Về vật chứng của vụ án:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,19 gam Heroine còn lại sau giám định; 01 mảnh nilon màu xanh, 01 mảnh nilon màu hồng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang Lưu Văn S.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 17 giờ 15 phút ngày 26/6/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 43/2023/HS-ST

Số hiệu:43/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về