TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 24 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2022/HS-ST ngày 29/6/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2022/QĐXXST-HS ngày 10/8/2022 đối với bị cáo:
Vì Văn T, sinh ngày 08 tháng 2 năm 1964 tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm P, xã C, huyện M, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/10; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vì Văn D (đã chết) và bà Bùi Thị M (tên gọi khác Bùi Thị C) sinh năm 1931 (đã chết); Có vợ là Hà Thị K, sinh năm 1964 và có 02 con, con thứ nhất sinh năm 1984 và con thứ hai sinh năm 1988; bị cáo là con thứ ba trong gia đình có sáu anh chị em. Tiền án; tiền sự: Không.
Về nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Mai Châu xử phạt 30 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo bản án số 31/2016/HSST ngày 16/9/2016 . Bị cáo đã chấp hành xong bản án.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 27/01/2022 chuyển tạm giam ngày 05/02/2022. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ, ngày 27/01/2022 tổ công tác Công an huyện Mai Châu phối hợp cùng Công an xã Cun Pheo làm nhiệm vụ thì phát hiện Vì Văn T đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu T dừng lại để kiểm tra. Sau đó T đã tự giác giao nộp 01 gói nilon mầu đen bên trong có 04 gói nilon mầu xanh và 01 gói nilon mầu hồng bên trong đều chưa các viên nén mầu hồng và xanh. T khai nhận tất cả đều là ma túy, số ma túy trên T tàng trữ để sử dụng, Cơ quan CSĐT đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, lập biên bản niêm phong vật chứng đối với Vì Văn T.
Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Châu, Vì Văn T khai nhận về nguồn gốc số ma túy trên như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 27/01/2022, Vì Văn T đi bộ từ nhà đến xã H, huyện M để tìm mua ma túy. Khi tới khu vực vườn luồng giáp ranh giữa xã C với xã H, T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết. T hỏi mua ma túy với người đàn ông đó, người đàn ông đó đồng ý, rồi T đưa người đàn ông đó số tiền 5.000.000 đồng người đàn ông đó đưa lại cho T 01 gói nilon mầu đen bên trong có 05 gói nilon nhỏ chứa ma túy. Sau khi mua được ma túy T đã cất giấu ma túy vào túi quấn đang mặc rồi đi về theo đường cũ. Trên đường đi về thì tới xóm C, xã C, huyện M thì T bị Công an bắt quả tang khi đang tàng trữ trái phép chất ma túy.
Vật chứng thu giữ: 04 gói nilon mầu xanh và 01 gói nilon mầu hồng bên trong đều chưa các viên nén mầu hồng và xanh. Sau khi mở niêm phong kiểm tra xác định: Tổng số viên nén trong 05 gói nilon là: 747 viên nén (trong đó có 738 viên mầu hồng, 9 viên mầu xanh) có tổng khối lượng là 75,99 gam.
Tại bản kết luận giám định số: 37/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 17/03/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình đã kết luận: Các viên nén mầu hồng và mầu xanh có trong phong bì niêm phong một mặt ghi: “Vật chứng thu giữ của Vì V, sinh năm 1964; Trú tại: Xóm P, xã C, huyện M, tỉnh Hòa Bình” gửi giám định có tổng khối lượng là 75,99 gam, là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số: 39/CT-VKS-HS ngày 29/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu đã quyết định truy tố Vì Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Vì Văn T từ 12 năm đến 13 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 27/01/2022.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma túy được hoàn trả sau giám định.
Đối với người đàn ông dân tộc Mông mà Vì Văn T khai là đã bán ma túy cho bị cáo, kết quả điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không đủ căn cứ để tiếp tục xử lý.
Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố. Sau sự việc xảy ra đã thành khẩn khai báo mong được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Mai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 27/01/2022 tại xóm C, xã C, huyện M, Vì Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 75,99 gam ma tuý, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, việc bị cáo bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Đồng thời có đủ cơ sở kết luận bị cáo Vì Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý chất gây nghiện của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ sai trái do hành vi của mình gây ra đối với bản thân, gia đình và xã hội. Song vì là đối tượng nghiện ma túy lâu năm, cần có chất ma tuý để sử dụng cho bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Lỗi của bị cáo trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp.
[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2016 đã bị TAND Huyện Mai Châu xử phạt 30 tháng tù, về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và bản án vào ngày 28/9/2018 đến nay đương nhiên được xóa án tích. Bị cáo không lấy đó là bài học mà tiếp tục dấn sâu vào con đường phạm tội. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy việc áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo là không có tính khả thi nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ nêu trên. Hội đồng xét xử xét thấy cần thấy cần thiết phải có một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ trong hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết.
[7] Về vật chứng vụ án: Đối với toàn bộ số ma túy thu giữ của bị cáo được hoàn trả sau giám định cần tịch thu để tiêu huỷ sau khi án có hiệu lực pháp luật.
[8] Đối với người đàn ông dân tộc mông mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo, trong quá trình điều tra không xác định được là người nào nên không có căn cứ đề nghị xử lý.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Vì Văn T phải nộp án phí và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh, hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
- Xử phạt bị cáo Vì Văn T 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 27/01/2022.
2. Về xử lý vật chứng:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong có chứa toàn bộ ma túy còn lại sau khi giám định.
(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 43/THA ngày 08/7/2022 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Bị cáo Vì Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên á.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 43/2022/HS-ST
Số hiệu: | 43/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về