Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 42/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 14/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hình sự thụ lý số 31/2023/HSST ngày 28/4/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2023/QĐXXTS-HS ngày 01/6/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Thanh T (tên gọi khác: C), sinh năm 1993 tại tỉnh Lâm Đồng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: tổ 11, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm vườn; trình độ văn hoá: lớp 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Ngọc B và bà Ngô Thị H; gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; vợ: Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1992, con: 01, sinh năm 2017; tiền án: không, tiền sự: 01, tại Quyết định số 115/QĐ-XPHC ngày 05/9/2022 của Công an huyện B xử phạt bị cáo 3.000.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; nhân thân: tại Bản án số 46/2013/HSST ngày 09/8/2013 của Tòa án nhân dân huyện B xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tại Bản án số 32/2015/HSST ngày 05/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện B xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tại Bản án số 54/2016/HSST ngày 26/10/2016 của Tòa án nhân dân huyện B xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tại Bản án số 49/2018/HSST ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện B xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/12/2022 đến ngày 07/01/2023 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B. Có mặt.

Người làm chứng:

1. Ông K’S, sinh năm 1981 Địa chỉ: tổ 15, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

2. Ông Nguyễn Trọng B, sinh năm 1965 Địa chỉ: tổ 15, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Thanh T là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 11 giờ ngày 29/12/2022, Hoàng Thanh T đến khu vực ngã ba 26 thuộc tổ 15, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng mua của 01 người đàn ông (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) 01 gói ma túy với giá 700.000 đồng. Sau đó, T bỏ gói ma túy vừa mua được vào túi phía trước bên trái áo khoác T đang mặc và đi bộ về nhà. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường H thuộc tổ 15, thị trấn L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ tại túi phía trước bên trái áo khoác mà T đang mặc 01 gói giấy màu trắng, kích thước 2,5cmx2,8cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. Hoàng Thanh T thừa nhận chất bột màu trắng trong gói giấy trên là ma túy mua về để sử dụng. Cơ quan cảnh sát điều tra đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ chất nghi là ma túy, niêm phong và gửi giám định.

Tại Kết luận giám định số 2014/KL-KTHS ngày 31/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: mẫu cục bột đựng trong một gói giấy được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,3442g (không phẩy ba bốn bốn hai gam), loại Heroine. Heroine là chất ma túy nằm trong Danh mục IA, STT: 09, Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2012 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 37/CT-VKSBL ngày 28/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Hoàng Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

Bị cáo trình bày: bị cáo Hoàng Thanh T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Thanh T từ 18 đến 24 tháng tù.

Về vật chứng: sau giám định gồm 01 phong bì đựng bao gói vật chứng trước giám định; 01 phong bì đựng mẫu còn lại sau giám định 0,2525g ma túy, loại Heroine; 01 kim tiêm đã qua sử dụng có nắp màu đỏ đề nghị tịch thu tiêu huỷ; 01 áo khoác màu nâu xám đề nghị trả lại cho bị cáo.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về chăm lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện B, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo:

[2.1] Qua thẩm vấn công khai tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thể hiện: bị cáo là người nghiện ma túy, vào khoảng 11 giờ ngày 29/12/2022 bị cáo đến khu vực ngã ba 26 thuộc tổ 15, thị trấn L, huyện B mua 01 gói ma túy của người đàn ông chưa xác định được nhân thân lai lịch bỏ vào túi phía trước bên trái áo khoác của mình đang mặc và đi bộ về nhà. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường H thuộc tổ 15, thị trấn L, huyện B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B bắt quả tang, thu giữ 01 gói giấy màu trắng, kích thước 2,5cmx2,8cm, bên trong chứa chất bột màu trắng, bị cáo thừa nhận chất bột màu trắng trong gói giấy nêu trên là chất ma túy bị cáo mua về để sử dụng cá nhân.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng và các chứng khác đã được thẩm tra tại phiên toà, phù hợp với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo là 0,3442g (không phẩy ba bốn bốn hai gam), loại Heroine. Đây là chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã hội, chỉ sử dụng chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền.

[2.2] Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Nếu không được phát hiện kịp thời sẽ làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Bản thân bị cáo nhận thức được ma tuý là chất độc hại, một loại hàng đặc biệt do nhà nước độc quyền quản lý, bất kỳ ai vi phạm đến ma tuý, tuỳ tính chất mức độ đều bị xử lý nghiêm bằng luật hình sự. Mặt khác, bị cáo đã 04 lần bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lâm Đồng xử phạt tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và 01 lần bị Công an huyện B xử phạt 3.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không xem đó là bài học để tu dưỡng và rèn luyện bản thân mà vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Điều đó cho thấy bản thân bị cáo rất coi thường kỷ cương pháp luật.

Để trừng trị nghiêm khắc hành vi phạm tội, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và ngăn ngừa phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật nên cần phải xét xử và áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[2.3] Hội đồng xét xử đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như sau: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay thấy rằng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Vì vậy, áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có nhân thân rất xấu.

[2.4] Từ những phân tích trên, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo bị cáo và để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[2.5] Trong vụ án này, đối với người đàn ông chưa xác định được nhân thân lai lịch đã bán ma túy cho bị cáo Hoàng Thanh T có dấu hiệu của tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B đã tách ra để xử lý sau là đúng pháp luật.

[3] Về vật chứng: sau giám định gồm 01 phong bì đựng bao gói vật chứng trước giám định; 01 phong bì đựng mẫu còn lại sau giám định có 0,2525g ma túy, loại Heroine; 01 kim tiêm đã qua sử dụng có nắp màu đỏ xét không có giá trị nên tịch thu tiêu huỷ; đối với 01 áo khoác màu nâu xám là tài sản hợp pháp nên trả lại cho bị cáo.

[4] Về án phí: bị cáo Hoàng Thanh T phạm tội nên buộc phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm là đúng quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thanh T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/12/2022.

2. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu huỷ vật chứng sau giám định gồm 01 phong bì đựng bao gói vật chứng trước giám định, 01 phong bì đựng mẫu còn lại sau giám định có 0,2525g ma túy (loại Heroine), 01 kim tiêm đã qua sử dụng có nắp màu đỏ.

- Trả lại cho bị cáo Hoàng Thanh T 01 áo khoác màu nâu xám.

(Tất cả vật chứng cơ quan Điều tra đã chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện B lưu giữ ngày 30/5/2023).

3. Về án phí: áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án, buộc bị cáo Hoàng Thanh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 42/2023/HS-ST

Số hiệu:42/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về