Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 416/2023/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 416/2023/HS-PT NGÀY 13/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2023/TLHS-PT ngày 30 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Lê Thị Út H và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án số 516/2022/HS-ST ngày 19-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Bị cáo bị kháng nghị:

Lê Thị Út H sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT: xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: phường C, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Lê Anh T và bà Lê Thị N; có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Tại Bản án số 93/2011/HSST ngày 27/4/2011, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xử phạt Lê Thị Út H 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ từ ngày 12/10/2021 đến ngày 20/10/2021; bắt tạm giam ngày 21/6/2022; có mặt.

- Bị cáo kháng cáo, bị kháng nghị:

Cao Xuân T sinh năm 1968; ĐKHKTT: phường V, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; chỗ ở: phường C, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Cao Xuân H và bà Nguyễn Thị D; bị cáo có 01 con sinh năm 2011; nhân thân: 02 tiền sự, 04 tiền án (đã được xóa); tiền sự: không; tiền án: ngày 08/5/2020, Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị bắt tạm giữ ngày 12/10/2021, có mặt.

- Người bào chữa cho 2 bị cáo: Luật sư Nguyễn Quang T - Văn phòng luật sư S, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tòa án cấp sơ thẩm kết án Lê Thị Út H và Cao Xuân T về các hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 18 giờ 45 phút, ngày 11/10/2021, tại khu vực ngõ 171 đường Nguyễn Xiển, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang Cao Xuân T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nên đưa về trụ sở Cơ quan điều tra làm rõ. Vật chứng thu giữ của Cao Xuân T:

- 01 túi mầu trắng kích thước khoảng 3x5cm bên trong chứa tinh thể mầu trắng và 09 viên nén hình tròn màu hồng;

- 01 điện thoại di động Realme; - 01 điện thoại di động Oppo;

- 3.000.000 đồng; - 01 xe máy Honda SH BKS 29D2-574.xx.

Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở tại tổ 26 phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội của Cao Xuân T thu giữ:

- Tại mặt bàn trang điểm phòng ngủ tầng 2: 03 túi nilong màu trắng chứa tinh thể màu trắng, 01 cân điện tử;

- Tại tủ quần áo phòng ngủ tầng 2: 01 túi nilong màu trắng chứa tinh thể màu trắng; 05 túi nilong màu xanh bên trong chứa viên nén hình tròn màu đỏ;

01 túi nilong màu hồng chứa các viên nén màu đỏ;

Kết luận giám định số 7461 ngày 18/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội:

01 túi bên trong có:

- Tinh thể mầu trắng là ma túy loại Methaphetamine, khối lượng 5,139 gam; 09 viên nén hình tròn màu hồng đều là ma túy loại Methaphetamine, khối lượng 0,920 gam;

- Tinh thể mầu trắng bên trong 04 túi nilong đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 119,605 gam; các viên nén mầu đỏ bên trong 05 túi nilong mầu xanh và 01 túi nilong mầu hồng đều là ma t úy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 122,123 gam; 01 cân điện tử màu đen có dính ma túy loại Methamphetamine.

Quá trình khám xét có Lê Thị Út H - sống C với Cao Xuân T tại chỗ ở nêu trên, nên Cơ quan điều tra mời về trụ sở làm rõ.

Thu giữ của Lê Thị Út H:

01 điện thoại OPPO số thuê bao 033648xxxx; 01 điện thoại Iphone số thuê bao 08291xxxx; 01 điện thoại Samsung số thuê bao 056378xxxx; 01 điện thoại OPPO số thuê bao 037411xxxx.

Căn cứ bảng kê chi tiết số điện thoại của các bị can và quá trình kiểm tra dữ liệu trong điện thoại của Lê Thị Út H phát hiện:

Các số thuê bao của Cao Xuân T, Lê Thị Út H, Nguyễn Học I sử dụng, xác định Lê Thị Út H có nhiều cuộc liên lạc với Nguyễn Học I, Lò Văn M. Cao Xuân T có liên lạc với Nguyễn Học I.

Kiểm tra nội dung tin nhắn lưu giữ trong các điện thoại của Lê Thị Út H có tin nhắn trao đổi về việc mua bán ma túy với nhiều đối tượng trong đó có người có tên Huyền Dũng (sử dụng số điện thoại 0342886968) và Nguyễn Học I (sử dụng số điện thoại 0817033333), cụ thể:

- Nội dung tin nhắn liên quan đến giao dịch mua bán ma túy từ số điện thoại của Nguyễn Học I cho Lê Thị Út H ngày 03/10/2021 phù hợp với bảng kê cuộc gọi đi đến giữa I, H và T.

- Nội dung tin nhắn liên quan đến giao dịch mua bán ma túy của Huyền Dũng và Lê Thị Út H.

Tại Cơ quan điều tra, Cao Xuân T ban đầu khai: T sống với Lê Thị Út H như vợ chồng tại địa chỉ tổ 26 phường Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Ngày 11/10/2021, T đang trên đường mang số ma túy đến nhà Đỗ Quang C (sinh năm 1969, trú tại phường Hạ Đình, Thanh Xuân, Hà Nội) để sử dụng và bán cho khách thì bị lực lượng Công an bắt giữ. Số ma túy và chiếc cân điện tử Cơ quan điều tra thu giữ khi khám xét tại nhà của T là của Lê Thị Út H cất giấu để bán. Nguồn gốc số ma túy khi khám xét T không biết H lấy từ đâu. H trực tiếp bán ma túy cho khách, có lần H bảo T giao ma túy cho khách trong đó có đối tượng Huyền “Dũng” tại khu vực cầu Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội. Nhiều lần T tự lấy ma túy của H để đi bán cho khách, T đã bán ma túy được khoảng hai tháng trở lại đây, mỗi ngày T bán khoảng 5-6 gam cho 5-6 khách với giá 500.000 đồng/gam ma túy đá. T biết H mua bán ma túy với nhiều người trong đó có Lò Văn M và Hiếu “béo”. Khoảng tháng 9/2021, T nghe H nói với T là đã lấy của M số ma túy giá một tỉ đồng và cho T xem hình ảnh H chuyển tiền cho M trên điện thoại. Sau đó, Cao Xuân T thay đổi lời khai, không nhận tham gia bán ma tuý cùng Lê Thị Út H, chỉ được H cho ma tuý để sử dụng.

Quá trình điều tra vụ án, Cao Xuân T thay đổi lời khai, xác định không tham gia bán ma tuý cùng Lê Thị Út H, chỉ được H cho ma tuý để sử dụng. Tuy nhiên, căn cứ vào các lời khai ban đầu, bản tự khai của Cao Xuân T và các tài liệu điều tra khác, đủ cơ sở để xác định Cao Xuân T đồng phạm mua bán trái phép chất ma túy với Lê Thị Út H.

Lê Thị Út H khai không thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Cao Xuân T, Lò Văn M, Nguyễn Học I, Huyền Dũng. Các tin nhắn mua bán ma túy của H, hình ảnh chuyển tiền cho Lò Văn M (hình ảnh do H tự tạo) mục đích để cho T xem và biết mà không mua bán ma túy. Đối với các tin nhắn mua bán ma túy với Nguyễn Học I, H nằm điều trị ở bệnh viện Thu Cúc, người giúp việc cho H là "Dung béo" đã dùng điện thoại của H để nhắn cho I, hiện "Dung béo" thuê nhà ở Kim Giang. Tuy nhiên, căn cứ vào các lời khai của Cao Xuân T, Nguyễn Học I, Lò Văn M và các tài liệu điều tra khác, đủ cơ sở để xác định số ma túy thu giữ nêu trên là của Lê Thị Út H cất giấu để mua bán trái phép chất ma túy.

Ngày 30/12/2021, Cơ quan điều tra đã khởi tố bị can đối với Nguyễn Học I (tức Hiếu “béo”) và Lò Văn M trong một vụ án mua bán trái phép chất ma túy khác. Quá trình đấu tranh khai thác mở rộng, Nguyễn Học I, Lò Văn M khai báo về hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Lê Thị Út H, cụ thể:

Lò Văn M khai M quen vợ chồng T - H từ khoảng tháng 6/2021, đến khoảng giữa tháng 7 hoặc tháng 8/2021 tháng 7/2021, H nhờ M mua ma túy đá, Ketamine từ Điện Biên để H bán kiếm lời. M đã mua 01 kg ma túy Ketamine, 02 kg ma túy đá với giá 800.000.000 đồng mang về cất giấu ở bãi xe gara khu vực hồ Mễ Trì. H hẹn M đến khu vực đường Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội để giao dịch. M cầm ma túy đi taxi cùng Nguyễn Học I đến địa chỉ trên, M cầm túi ma túy đi bộ vào gặp H. M thỏa thuận với H giá 01 kg ma túy Ketamine và 02 kg ma túy đá giá 1 tỉ đồng. H trả trước cho M 300 triệu đồng và bảo sẽ chuyển khoản cho M 700 triệu đồng vào tài khoản. H cho M xem ảnh chụp giao dịch chuyển tiền thành công 700 triệu đồng nên M để H mang ma túy về. Đến tối M không thấy tiền về tài khoản nên M đi cùng I đến nhà H ở Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội để đòi tiền. H bảo M là do lỗi ngân hàng nên H nợ lại M 700 triệu đồng. Sau đó một thời gian M biết vợ chồng H bị bắt, sau khi H được thả về H nhiều lần gọi cho M hỏi mua ma túy nhưng M không đồng ý. M chỉ liên lạc, giao dịch mua bán ma túy với H.

Nguyễn Học I khai: khoảng giữa tháng 7 hoặc tháng 8/2021 I cùng M đến gặp Út H ở khu vực bờ sông Kim Giang. M vào gặp Út H khoảng 30 phút sau M quay ra và bảo I xong việc rồi đi về. Khi về đến nhà ở 30 Hồ Mễ Trì, M bảo với I là bị H lừa 700 triệu rồi và cho I xem hình ảnh chuyển tiền của H cho M. I không biết M bị Út H lừa như thế nào và 700 triệu là tiền gì. Ngày 30/10/2021, I có nhắn tin cho Út H để hỏi mua ma túy sử dụng. Sau đó I không mua vì H bán giá cao và H bảo I đến nhà H để giao dịch với Cao Xuân T, nhưng I không đi vì I chỉ hỏi và giao dịch mua bán ma túy với H. H là người chỉ đạo Cao Xuân T trong việc mua bán trái phép chất ma túy.

Đối với việc Lò Văn M khai mua bán trái phép ma túy với H nêu trên chỉ có lời khai của Lò Văn M không có tài liệu liên quan đến giao dịch mua bán ma túy, H không khai nhận nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ.

Đối với Dương Thị Thanh H (tức Huyền Dũng) (sinh năm 1981, trú tại số phường V, quận Hoàng Mai, Hà Nội) khai có sử dụng số điện thoại 034288xxxx nhưng đã bị mất điện thoại và số trên từ khoảng tháng 4/2021. Huyền định làm thủ tục cắt khóa số nhưng không có chứng minh nhân dân nên không làm được. Huyền có quen biết nhưng không mua bán ma túy với T và H. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Đối với Đỗ Quang C khai biết, quan hệ bạn bè với Cao Xuân T. Bản thân C không sử dụng ma túy, chiều ngày 11/10/2021, T có điện thoại cho C bảo sẽ đến nhà C chơi. C không biết, không liên quan đến việc T phạm tội về ma túy. Thử nước tiểu đối với Đỗ Quang C kết quả âm tính với ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Đối với đối tượng “Dung béo” theo lời khai của Út H: xác M tại địa chỉ nhà số 3 ngõ 174 Kim Giang không có ai tên Dung đã và đang thuê nhà, không có địa chỉ nhà số 3 ngõ 174 Kim Giang, do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ.

Đối với 01 xe máy Honda SH BKS: 29D2-574.40 thu giữ, xác minh chủ đăng ký là Phạm Anh C (SN 1972, NKTT: phường T, Hai Bà Trưng, Hà Nội), hiện Phạm Anh C không có mặt tại địa phương, xe máy trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Lê Thị Út H khai xe máy trên của Nguyễn Đức T (SN 1972, chỗ ở: Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội). Nguyễn Đức T khai mua xe máy trên của Phạm Anh C vào ngày 06/10/2021 với giá 115.000.000 đồng. Sau đó cho Út H mượn, không biết việc mua bán trái phép chất ma túy của Lê Thị Út H.

Tại Bản án số 516/2022/HS-ST ngày 19-12-2022, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; Điều 39 Bộ luật hình sự; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cao Xuân T; xử phạt:

- Lê Thị Út H tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/6/2022.

- Cao Xuân T tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2021.

Đều về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định việc xử lí vật chứng, về án phí theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

- Ngày 29-12-2022, bị cáo Cao Xuân T kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 03-01-2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kháng nghị bản án sơ thẩm nêu trên; đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử phúc thẩm giảm hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo T khai số ma túy bị thu giữ trên đường là ma túy bị cáo mua, cất giấu để sử dụng; không nhằm bán lại cho người khác; số ma túy bị thu giữ tại nhà không phải của bị cáo. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt.

Bị cáo H khai trước khi bị bắt, khám xét không biết trong nhà có cất giấu ma túy. Không biết ma túy cất giấu trong nhà bị cáo là của ai. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không kháng cáo. Đề nghị xin giảm hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, có ý kiến:

- Rút toàn bộ kháng nghị đối với hai bị cáo. Đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Út H.

- Đối với bị cáo Cao Xuân T: căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Cao Xuân T tù C thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy" là có căn cứ, đúng pháp luật. Không có căn cứ chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho hai bị cáo đề nghị xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án; mức độ phạm tội của các bị cáo để có quyết định đúng pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Đối với bị cáo Lê Thị Út H: bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án tù C thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Sau khi xét xử sơ thẩm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kháng nghị đề nghị xét xử phúc thẩm giảm hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo không kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đã rút kháng nghị. Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Út H.

[2]. Trong quá trình điều tra, bị cáo Cao Xuân T thay đổi lời khai; lúc đầu nhận tội, sau đó bị cáo không nhận tội; bị cáo Lê Thị Út H không nhận tội. Tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, các bị cáo không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy, nhưng căn cứ vào các lời khai nhận tội của bị cáo T trong giai đoạn điều tra, lời khai các đối tượng Lò Văn M, Nguyễn Học I liên quan đến việc mua bán trái phép chất ma túy của các bị cáo, biên bản khám xét, thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận: ngày 11/10/2021, tại khu vực ngõ 171 đường Nguyễn Xiển, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, Cao Xuân T có hành vi cất giấu 6,059 gam Methamphetamine của Lê Thị Út H đem đi bán trái phép thì bị Cơ quan điều tra bắt giữ cùng tang vật. Ngoài ra, Cao Xuân T và Lê Thị Út H còn cất giấu 241,728 gam ma túy Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy Lê Thị Út H, Cao Xuân T mua bán trái phép là 247,787 gam ma túy loại Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm kết án Cao Xuân T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự là có căn cứ, không oan.

Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; bị cáo Cao Xuân T có vai trò tích cực cùng H thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, vai trò, mức độ phạm tội của hai bị cáo là ngang nhau; về nhân thân: bị cáo đã nhiều lần bị kết án; trong đó ngày 08/5/2020 bị cáo T bị xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, nên bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Xem xét đầy đủ, toàn diện, khách quan các tình tiết của vụ án; nhân thân bị cáo, mức độ phạm tội và tính chất đặc biệt nghiêm trọng của vụ án; xét thấy việc Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng mức hình phạt tù không thời hạn đối với bị cáo là đúng pháp luật. Không có căn cứ giảm hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[4]. Về án phí: bị cáo Cao Xuân T phải nộp án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 342 và Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Lê Thị Út H.

Quyết định về phần hình phạt của Bản án số 516/2022/HS-ST ngày 19-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với bị cáo Lê Thị Út H có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

2. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Xuân T và giữ nguyên Bản án số 516/2022/HS-ST ngày 19-12-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Cao Xuân T tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2021.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

4. Bị cáo Cao Xuân T phải nộp 200.000 đồng án phí phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 416/2023/HS-PT

Số hiệu:416/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về