Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 412/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 412/2022/HS-PT NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 255/2022/TLPT-HS ngày 11 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo Võ Trung H; do có kháng cáo của bị cáo Võ Trung H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 233/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà.

- Bị cáo có kháng cáo: Võ Trung H, sinh năm: 1986 tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Nơi cư trú: ấp Z, xã H1, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; Nghề nghiệp:

Thợ sơn nước; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không: Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Võ Đình T2, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1962; Vợ: Lê Thị Th, sinh năm 1984;

Tiền án: Tại bản án số 01/2016/HSST ngày 05/01/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Ngày 17/11/2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 06/3/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt ngày 14/01/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Trung H là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 21 giờ ngày 14/01/2022, H đi đến khu vực trước trường Cao đẳng F thuộc khu phố 6, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai mua 03 gói ma túy của người tên T1 (không rõ nhân thân, lai lịch) với giá 1.000.000 đồng. Khi mua được ma túy, H cầm trên tay và tìm chỗ để sử dụng thì bị Công an phường T kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ 03 gói ma túy và 01 điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei 86016344676919.

Vật chứng thu giữ:

+ 03 (ba) gói nylon được hàn kín hai đầu, bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong có chữ ký của Võ Trung H.

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, số Imei 86016344676919.

Tại bản kết luận giám định số 140/KLGĐ-PC09 ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng chứa bên trong 03 gói nylon hàn kín hai đầu được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 1,5131 gam, loại: Methamphetamine.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 233/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà đã tuyên xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 47 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106; Điều 136, 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên bố bị cáo Võ Trung H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Võ Trung H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2022.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 03/6/2022, bị cáo Võ Trung H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án như sau:

Bản án hình sự sơ thẩm số 233/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà đã xem xét khách quan, toàn diện nội dung vụ án và xử phạt bị cáo H mức án 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tình tiết đặc biệt nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 14/01/2022 tại khu vực trước cổng trường Cao đẳng F thuộc khu phố 6, phường T, thành phố B bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 03 gói ma túy tổng hợp hàng đá mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị Công an phường T phát hiện bắt quả tang.

[2] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo gây ra là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng quy định pháp luật.

Khi lượng hình, cấp sơ thẩm cũng đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xử phạt bị cáo mức án 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù là thoả đáng và phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và cho rằng đã được xoá án tích. Tuy nhiên, theo biên bản xác minh ngày 24/02/2022 (Bút lục số 57) thể hiện bị cáo chưa liên đới bồi thường về dân sự theo Quyết định của Bản án số 01/2016/HSST ngày 05/01/2016 của TAND huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nên cấp sơ thẩm xác định bị cáo chưa được xoá án tích là đúng. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm a, Khoản 1, Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Trung H, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 233/2022/HS-ST ngày 31/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Võ Trung H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/01/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 412/2022/HS-PT

Số hiệu:412/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về