Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 41/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 28/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hưng Yên, mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2023/TLST-HS ngày 06/7/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST-HS ngày 17/7/2023, đối với:

Bị cáo: Vũ Văn H, sinh năm 1993; nơi cư trú: thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Hưng Yên; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12. Con ông: Vũ Văn T, con bà: Nguyễn Thị T, vợ: Trần Thị M. Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2021. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/6/2023, bị tạm giam từ ngày 10/6/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng: ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1964 (vắng mặt); Trú tại: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

- Người chứng kiến: ông Đào Văn T, sinh năm 1973 (vắng mặt);

Trú tại: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ 10 phút, ngày 07/6/2023, Tổ công tác của Công an huyện K tuần tra kiểm soát tại khu vực đường Quốc lộ 39, đoạn gần nhà nghỉ M thuộc thôn Trương Xá, xã Toàn Thắng, huyện K, tỉnh Hưng Yên, phát hiện Vũ Văn H có biểu hiện nghi vấn. Quá trình kiểm tra H tự giao nộp từ tay trái đang cầm 01 gói nilon màu trắng. H khai nhận là ma tuý đá mua về để sử dụng. Tổ công tác tiến hành niêm phong gói nilon chứa ma tuý (ký hiệu A1).

H khai: Do bản thân nghiện ma tuý nên khoảng 07 giờ 30 phút, ngày 07/6/2023, H đi bộ từ nhà ra ngoài đường để tìm mua ma tuý để sử dụng. H đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông không quen biết xuống khu vực thành phố Hưng Yên, để mua ma tuý. Đến đoạn cổng chào thành phố Hưng Yên, đoạn giáp Quốc lộ 39, thuộc thôn Tiên Cầu, xã Hiệp Cường, huyện K, tỉnh Hưng Yên, H đi bộ thì gặp một người thanh niên giống người nghiện ma tuý. H hỏi người này có bán ma tuý không, bán cho 500.000 đồng, người này đồng ý cầm tiền và đưa cho H 01 gói nilon màu trắng có nắp viền cài màu đỏ, bên trong chứa chất kết tinh màu trắng dạng hạt và bột, do đã sử dụng ma tuý nên H biết đây là ma tuý. H cầm gói ma tuý trong tay rồi đi nhờ xe mô tô của một người đàn ông đi đường đến khu vực cầu Trương Xá xuống xe và đi bộ đến gần nhà nghỉ M, thuộc thôn Trương Xá thì bị bắt quả tang.

Kết luận giám định số 351/KL-KTHS(MT) ngày 10/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi ký hiệu A1, có khối lượng là 0,273 gam, là ma tuý, loại Methamphetamine.

Vũ Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Đối với nam thanh niên bán ma tuý cho H, do H khai không biết họ, tên, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K (dưới đây viết là: Cơ quan điều tra) không có căn cứ xác minh, xử lý.

Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật gửi giám định, trên ghi số 351/KL-KTHS(MT) bên trong có: 0,258 gam ma tuý, loại Methamphetamine trong niêm phong, ký hiệu A1; 01 vỏ túi nilon đựng ma tuý; 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

Cáo trạng số 44/CT-VKSKĐ ngày 06/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố Vũ Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K trình bày luận tội: giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Vũ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Vũ Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Xử phạt: bị cáo Vũ Văn H từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 07/6/2023.

Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu cho huỷ 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định ghi số 371/KL-KTHS(MT) bên trong chứa 0,258 gam ma tuý loại Methamphetamine, ghi ký hiệu A1; 01 vỏ túi nilon đựng ma tuý; 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

- Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định số 351/KL-KTHS(MT) ngày 10/6/2023 và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 10 phút, ngày 07/6/2023, tại thôn Trương Xá, xã Toàn Thắng, huyện K, tỉnh Hưng Yên, Vũ Văn H có hành vi Tàng trữ trái phép 0,273 gam chất ma tuý, loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Vũ Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người đã thành niên, nhận thức rất rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma tuý đe dọa nghiêm trọng đến trật tự công cộng, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời để làm bài học ngăn ngừa tội phạm chung.

[3] Đối với nam thanh niên bán ma tuý cho H. Do H khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa có căn cứ xác minh làm rõ và xử lý.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma tuý, có nhân thân xấu.

[5] Về hình phạt: căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt.

[6] Về hình phạt bổ sung: tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy, bị cáo là người lao động tự do, nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 0,258 gam ma tuý Methamphetamine, là vật cấm tàng trữ nên tịch thu cho tiêu huỷ.

- 01 vỏ túi nilon đựng ma tuý và 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định là vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu huỷ.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Vũ Văn H.

Tuyên bố: bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: bị cáo Vũ Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 07/6/2023.

Về xử lý vật chứng: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong hoàn mẫu vật ghi số 351/KL-KTHS(MT) bên trong có chứa 0,258 gam ma tuý, loại Methamphetamine; 01 vỏ túi nilon đựng ma tuý; 01 phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng nêu trên được thể hiện theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 12/7/2023).

Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 41/2023/HS-ST

Số hiệu:41/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về