Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M C, TỈNH ĐIỆN BIÊN

 BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 26/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M C tiến hành mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2023/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2023. Theo quyết định đưa vụ án xét xử số: 41/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hồ A H (tên gọi khác: Không) - Sinh năm: 1976. Tại huyện M C, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản S L 1, xã S L, huyện M C, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hóa: Không; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hồ Dụ P và bà Chớ Thị D – Đã chết.

Vợ: Giàng Thị P – Đã chết, bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2003 con nhỏ nhất sinh năm 2006. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 16/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện M C xử phạt 03 năm 04 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, ngày 28/8/2020 chấp hành xong, hiện đã được xóa án tích. Ngày 08/4/2023, bị tổ công tác Công an huyện M C bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị tạm giữ từ ngày 08/4/2023, tạm giam từ ngày 17/4/2023 đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Hồ A H là ông Lường Văn Bình - Trợ giúp viên pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Điện Biên - Có mặt.

- Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Chớ A D – Sinh năm: 1986 và chị Vàng Thị L – Sinh năm: 1990 – Đều vắng mặt.

Cùng nơi cư trú: Bản S L 1, xã S L, huyện M C, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 03/4/2023 Hồ A H đang ở nhà tại bản S L 1, xã S L, huyện M C, tỉnh Điện Biên, có một người đàn ông không rõ lai lịch vào nhà H, qua trao đổi mua của người này 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu đen với giá 200.000 đồng, sau đó H lấy gói Heroine bẻ ra một ít sử dụng. Đến sáng ngày 04/4/2023 H mang số Heroine lên lán nương của H ở bản S L 1, tại đây H lấy một mảnh dao lam chia gói Heroine thành 12 cục, H sử dụng hết 2 cục Heroine, còn 10 cục Heroine bỏ vào lọ nhựa màu trắng cất giấu vào túi áo ngực bên trái. Đến sáng ngày 08/4/2023 H đến nhà Chớ A D ở cùng bản S L 1 ăn cơm, sau khi vợ cH Chớ A D đi làm nương, hồi 09 giờ cùng ngày H ngồi ở giường ngủ nhà D lấy 01 cục Heroine ra sử dụng hết thì bị tổ công tác Công an huyện M C phối hợp Công an xã S L bắt quả tang và thu giữ 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 09 cục Heroine có khối lượng 0,418 gam, H đã thừa nhận là Heroine của H mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng ngày 08/4/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M C xác định khối lượng: Lấy toàn bộ số chất bột nén màu trắng đục nghi là Heroine thu giữ của Hồ A H lên cân xác định khối lượng là 0,418 gam. Trích mẫu gửi giám định 0,046 gam. Vật chứng còn lại 0,372 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 619/KL-KTHS ngày 15/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Hồ A H là 0,418 gam. Mẫu chất bột nén màu trắng đục thu giữ của Hồ A H gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKSMC, ngày 30 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M C, tỉnh Điện Biên đã truy tố Hồ A H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo H về cả tội danh và điều luật áp dụng. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hồ A H 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,372 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 01 lọ nhựa màu trắng, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy dở, 01 mảnh dao lam, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai, sau khi mua được ma túy bị cáo trích ra để sử dụng, tuy nhiên không đủ cơ sở xác định khối lượng số ma túy mà bị cáo đã sử dụng. Vì vậy, bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy mà bị cáo đã sử dụng hết.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Công an huyện M C đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo tại Quyết định số: 20/QĐ- XPHC ngày 25/5/2023, hình thức xử phạt cảnh cáo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí, cần miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát về tội danh điều luật áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo không có công việc ổn định, kinh tế gia đình rất khó khăn là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu vùng xa, nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo trong mức án như Kiểm sát viên đề nghị.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Chớ A D và chị Vàng Thị L vắng mặt, trong quá trình điều tra anh chị trình bày. Bị cáo có đến nhà anh chị xin ăn cơm buổi sáng cùng, sau khi ăn cơm xong anh chị đều đi làm nương, bị cáo ở lại nhà anh chị, anh chị không biết trong người bị cáo có ma túy, việc bị cáo sử dụng ma túy trong nhà anh chị không biết nên không có cơ sở xử lý anh D và chị L.

Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa cho bị cáo, không có ý kiến gì thay đổi bổ sung, bị cáo xin được miễn án phí, lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo Hồ A H khai nhận toàn bộ hành vi của mình, xác định ngày 03/4/2023, bị cáo đang ở nhà thì có một người đàn ông không biết tên địa chỉ đến nhà bị cáo trao đổi bán cho bị cáo 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Ngày 04/4/2023 bị cáo đem lên lán nương dùng dao lam chia gói heroine thành 12 cục nhỏ, bị cáo sử dụng hết 02 cục còn lại 10 cục bị bỏ vào lọ nhựa màu trắng cất giấu trên người. Đến ngày 08/4/2023 bị cáo sang nhà anh Chớ A D, sau khi vợ cH anh D đi làm nương bị cáo lấy 01 cục Heroine ra sử dụng hết, thì bị tổ công tác Công an huyện M C bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép 0,418 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện M C theo tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

" 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam" [2] Xét về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đều thừa nhận rằng khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ ma túy là một chất gây nghiện, gây tổn hại cho sức khỏe của con người cả về thể xác và tinh thần, là nguồn cơn, gốc rễ gây nên nhiều tệ nạn xã hội khác. Chính quyền địa phương cũng như trên thông tin đại chúng luôn tuyên truyền về tác hại của ma túy đối với cơ thể con người, cũng như chính sách của Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, mua bán, vận chuyển, sử dụng trái phép ma túy. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện hút của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự trị an trên địa bàn huyện. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

[3] Xét về nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hồ A H sinh ra và lớn lên được bố mẹ nuôi dưỡng, không đi học ở nhà lao động sản xuất phụ giúp gia đình. Trong cuộc sống do không chịu rèn luyện bản thân tu trí làm ăn lương thiện, bị cáo chỉ thích đua đòi bạn bè lao vào con đường nghiện chất ma túy, để thỏa mãn cho nhu cầu bản thân bị cáo cố tình tìm mua ma túy về tàng trữ để sử dụng. Ngày 16/01/2018 bị Tòa án nhân dân huyện M C xử phạt 03 năm 04 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, hiện đã chấp hành xong toàn bộ bản án và đã được xóa án tích, bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, lần phạm tội trước cũng liên quan đến ma túy, như vậy bị cáo có nhân thân xấu. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Vậy cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Như vậy đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp cần được xem xét chấp nhận. Những đề nghị của người bào chữa là có cơ sở chấp nhận. Vậy khi quyết định hình phạt HĐXX cần xét, trong cuộc sống việc tuân thủ pháp luật, nhân thân, khối lượng ma túy, hành vi mà bị cáo đã thực hiện và ý kiến của bị cáo tại phiên tòa để áp dụng một hình phạt tương xứng với tính chất mức độ bị cáo đã gây ra. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản bị cáo do Cơ quan CSĐT Công an huyện M C xác lập. Hiện bị cáo không có công việc ổn định, kinh tế gia đình rất khó khăn. Do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 0,372 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 01 lọ nhựa màu trắng, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy dở, 01 mảnh dao lam, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và những vật liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai, sau khi mua được ma túy bị cáo trích ra để sử dụng, tuy nhiên không đủ cơ sở xác định khối lượng số ma túy mà bị cáo đã sử dụng. Vì vậy, bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy đã sử dụng hết. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo, Công an huyện M C đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với bị cáo tại Quyết định số: 20/QĐ- XPHC ngày 25/5/2023, hình thức xử phạt cảnh cáo là phù hợp.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết họ tên địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Chớ A D và chị Vàng Thị L, khi bị cáo đến nhà, anh chị không biết trong người bị cáo có ma túy và việc bị cáo sử dụng ma túy trong nhà, anh chị không biết nên không có cơ sở xử lý anh D và chị L. Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội 14, bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo xin miễn án phí, cần miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

[7] Xét về hành vi và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M C và Viện Kiểm sát nhân dân huyện M C, Điều tra viên, Kiểm sát viên, từ khi khởi tố vụ án, quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đảm bảo về hình thức, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ A H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt bị cáo Hồ A H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 08/4/2023.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ vào điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,372 gam Heroine; 01 lọ nhựa màu trắng; 01 bật lửa ga màu đỏ; 01 mảnh giấy bạc đã bị đốt cháy dở; 01 mảnh dao lam; 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu.

Số vật chứng trên đã được niêm phong và bàn giao theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện M C với Chi cục thi hành án dân sự huyện M C vào ngày 31/5/2023.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 15 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội 14, miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo Hồ A H.

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 26/6/2023. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2023/HS-ST

Số hiệu:41/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về