TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L
BẢN ÁN 41/2023/HS-ST NGÀY 14/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14/8/2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 41/2023/HSST ngày 23 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Cao Xuân S; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1977 tại tỉnh L. Nơi cư trú: bản Chiềng C, xã Chăn N, huyện S1, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá (học vấn): 03/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Cao Xuân H (đã chết); Con bà:
Lường Thị T (đã chết); Họ tên vợ: Lâm Thị V, sinh năm 1982. Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2004. Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ nhất; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/4/2023 cho đến nay tại Nhà Tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh L. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 12/4/2023, tổ công tác của Đội cảnh sát kinh tế và ma túy - Công an thành phố L phối hợp với Công an phường Đông P, thành phố L, tỉnh L đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 23, phường Đông P, thành phố L, tỉnh L thì phát hiện Cao Xuân S đang đi bộ trên đường có biểu hiện nghi vấn phạm tội. Qua kiểm tra Cao Xuân S tự giác lấy trong từ trong túi quần bên phải ra 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng bên trong có 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Theo S khai đó là Heroine, S tàng trữ để sử dụng.
Tại cơ quan điều tra, Cao Xuân S khai nhận: Nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 12/4/2023, Cao Xuân S đi bộ một mình từ phường Đông P đến xã San Th, thành phố L, tỉnh L để tìm mua ma túy sử dụng. Khi S đi đến bãi đỗ xe chợ San Th thuộc Bản M, xã San Th thì gặp một người đàn ông tên Xỳ (S không rõ nhân thân, lai lịch) và nhờ Xỳ mua hộ ma túy. Xỳ đồng ý và cầm 100.000 đồng do S đưa cho đi khoảng 50 phút thì quay lại đưa cho S 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long, màu vàng bên trong có 01 gói ma túy được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh. Sau khi mua được ma túy, S cho vào trong túi quần bên phải rồi đi bộ để tìm chỗ sử dụng thì bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang.
Kết luận giám định số: 23/KLGĐ ngày 12/4/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: số chất bột màu trắng thu giữ của Cao Xuân S trong quá trình bắt quả tang ngày 12/4/2023 có khối lượng là 0,15gam. Lấy toàn bộ 0,15 gam gửi làm mẫu vật giám định Kết luận giám định số: 446/KL-KTHS ngày 12/4/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ của Cao Xuân S trong quá trình bắt quả tang ngày 12/4/2023 gửi giám định là ma tuý, loại Heroine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Cáo trạng số: 33/CT-VKSTP ngày 22/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Cao Xuân S về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cao Xuân S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Cao Xuân S từ 12 tháng đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2023. Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ một phong bì công văn của Công an thành phố L (theo hồ sơ bên trong là: 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Cao Xuân S). Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các quyết định nêu trên.
Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để được sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, các Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản ghi nhận sự việc, biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, kết luận giám định … được xem xét và tranh tụng công khai tại phiên toà. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định: Hồi 08 giờ 30 phút, ngày 12/4/2023, tại khu vực tổ 23, phường Đông P, thành phố L, tỉnh L, Cao Xuân S đang tàng trữ trái phép 0,15gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Bị cáo Cao Xuân S là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Cao Xuân S có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự gì Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định và không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng của vụ án:
Đối với 0,15 gam Heroine Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.
Đối với 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Cao Xuân S là công cụ phạm tội và là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Quá trình điều tra, theo lời khai của Cao Xuân S, nguồn gốc số Heroine bị thu giữ là do mua của một người đàn ông tên Xỳ không rõ nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra, làm rõ vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Quan điểm của kiểm sát viên tại phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 135, khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
1. Tuyên bố bị cáo Cao Xuân S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Cao Xuân S 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/4/2023 3. Về vật chứng:
Tịch thu, tiêu hủy: 01 mảnh nilon màu xanh; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang đối với Cao Xuân S (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/6 /2023 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).
4. Về án phí: Bị cáo Cao Xuân S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2023/HS-ST
Số hiệu: | 41/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về