Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 11 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 196/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 397/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2021, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa hình sự sơ thẩm số 120/2021/TB-TA ngày 24 tháng 12 năm 2021, Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 38/2022/TB-TA ngày 25 tháng 02 năm 2022, đối với bị cáo:

Võ Văn A (tên gọi khác: B), sinh năm: 1993 tại Bình Thuận. Nơi cư trú: khu phố C, thị trấn Thuận Nam, Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; giới tính nam; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: không; con ông Võ Văn D, sinh năm 1970; Nghề nghiệp: Thợ mộc và bà Đào Thị E, sinh năm 1971; nghề nghiệp: Làm nông. Cùng trú tại: khu phố C, thị trấn Thuận Nam, Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận; có vợ Nguyễn Thị Kim F, sinh năm 1993(đã ly hôn); có con: Võ Ngọc Bảo G, sinh năm 2013.

Tiền án: Ngày 07/3/2016 bị Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 07/03/2016, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/8/2020. Chưa được xóa án tích; tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 30/9/2021 bị Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận áp dụng tình tiết “Tái phạm” xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự sơ thẩm số 86/2021/HSST ngày 30/9/2021.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/8/2021, sau đó cHển sang tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố Phan Thiết. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 26/8/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Võ Văn A điều khiển xe mô tô biển số 86B6-D.73 từ nhà của mình đi đến thị trấn Phú Long, Huyện Hàm Thuận Bắc để gặp bạn có tên E (không rõ nhân thân) nhờ tìm mua ma túy để sử dụng. Sau khi gặp E, A nhờ mua ma túy thì E đồng ý và liên lạc với một người tên A (không rõ nhân thân) ở Mũi Né hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy đá thì A đồng ý và hẹn giao ma túy ở khu vực đồi cát đường F thuộc phường G, thành phố Phan Thiết. Sau khi nghe điện thoại xong, E ngồi sau xe mô tô của A hướng dẫn A đi đến điểm hẹn mua ma túy. Khi E và Võ Văn A đi đến một đường mòn trên đồi cát cạnh đường F thì gặp đối tượng tên A, Võ Văn A đưa cho E 2.000.000 đồng rồi E đưa số tiền trên cho A, nhận tiền xong A đưa cho E 02 gói ma túy đá (là Methamphetamine) và đưa thêm 01 gói ma túy (loại Ketamine) nói “cho thêm về chơi”, các gói ma túy này đều có đặc điểm chứa tinh thể màu trắng đựng trong gói nylon không màu, có khóa nhựa kéo một đầu. Giao ma túy xong thì đối tượng A bỏ đi, E đưa 03 gói ma túy trên cho Võ Văn A thì A cất 02 gói ma túy đá vào túi quần phía trước bên trái của mình, còn 01 gói ma túy (loại Ketamine) thì A cất vào túi xách đang đeo trên người. Khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, A chở E về lại thị trấn Phú Long, khi A điều khiển xe mô tô biển số 86B6-D.73 đi từ đường mòn đồi cát ra đầu đường F (706B) gần ngay chốt kiểm soát dịch Covid19 thì Công an phường G cùng chốt trực kiểm soát dịch Covid19 ở đây thấy khả nghi nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra thì A điều khiển xe mô tô chở E tăng ga bỏ chạy lên lại đồi cát cách chốt trực khoảng 400 mét đứng nấp sau một bụi cây đồng thời lúc này A lấy 02 gói ma túy đá, 01 cây súng bắn đạn chì tự chế trong người cất giấu dưới bụi cây và lấy 01 cân tiểu ly cất giấu ở một vị trí khác gần đó. Phát hiện Công an phường G truy đuổi thì E bỏ chạy, khi Công an phường G tới nơi kiểm tra túi xách đang đeo trên người A phát hiện 01 gói nylon không màu, có khóa nhựa kéo một đầu chứa tinh thể màu trắng A khai nhận đây là ma túy loại Ketamine. Biết hành vi phạm tội của mình bị phát hiện nên A đã chỉ nơi cất giấu 02 gói ma túy đá loại Methamphetamine và các đồ vật liên quan để Công an phường G thu giữ. A khai nhận mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy là để sử dụng.

Vật chứng thu giữ:

- 01 giỏ xách màu xám - đen, không có nhãn hiệu (A đang đeo trên người).

- 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa, kích thước khoảng (03 x 03) cm chứa tinh thể màu trắng. Thu giữ trong giỏ xách màu xám đen (A đang đeo trên người). Ký hiệu M1 khi giám định.

- 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa, kích thước khoảng (08. x05) cm chứa tinh thể màu trắng. Ký hiệu M2 khi giám định.

- 01 gói nylon không màu, một đầu có khóa nhựa, kích thước khoảng (05 x 05) cm chứa tinh thể màu trắng. Ký hiệu M3 khi giám định.

- 01 cân tiểu ly bằng nhựa và kim loại màu trắng, kích thước (7,5 x 04).

- 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, dài 11,5 cm.

- 01 cây súng ngắn, thân bằng kim loại màu trắng, tay cầm bằng gỗ kích thước (9 x 2,2)cm, phần kim loại có kích thước (11,5 x 2,5) cm.

- 01 điện thoại di động loại có phím bấm, màu đen, mặt trước và sau có chữ Nokia, chứa sim số 0865.690.860;

- 01 điện thoại di động loại cảm ứng, vỏ màu đen, mặt sau có chữ Vivo, chứa sim số 0398.132.858;

- 01 xe mô tô Honda, màu đen bạc, không gương chiếu hậu, biển kiểm soát 86B6 – D.73;

- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam 7.700.000.

Tất cả các đồ vật trên thu giữ từ Võ Văn A.

Tại ản kết luận giám định số 1067/KLGĐ – PC09 ngày 01/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,1350 gam, là Ketamine;

- Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 1,3836 gam, là Methamphetamine;

- Mẫu M3 gửi giám định có khối lượng 1,4619 gam, là Methamphetamine; Tổng khối lượng của hai chất ma túy mà Võ Văn A đã tàng trữ trái phép 2,9805 gam.

Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: Gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,1067 gam mẫu vật M1 còn lại sau giám định, gói nylon đã cắt lấy mẫu và 1,3234 gam mẫu vật M2 còn lại sau giám định, gói nylon đã cắt lấy mẫu và 1,4048 gam mẫu vật M3 còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1067/1 và 1067/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.

Về xử lý vật chứng:

Qúa trình điều tra xác định xe mô tô biển số 86B6-D.73 thuộc quyền sử hữu của anh Huỳnh Trà Đức H (sinh ngày 25/9/2005; hộ khẩu thường trú: thôn I, xã J, Huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận). Ngày 25/8/2021 anh H cho A mượn xe mô tô chở bạn gái đi chơi. Việc A sử dụng xe mô tô nói trên đi mua ma túy anh H không biết, nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho anh Huỳnh Trà Đức H. Sau khi nhận lại tài sản anh H không có yêu cầu gì về dân sự.

Đối với 01 điện thoại di động loại có phím bấm, màu đen, mặt trước và sau có chữ Nokia, chứa sim số 0865.690.860; 01 điện thoại di động loại cảm ứng, vỏ màu đen, mặt sau có chữ Vivo, chứa sim số 0398.132.858 và số 7.700.000 đồng là tài sản cá nhân của A không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại các tài sản nói trên cho A.

Đối với 01 cây súng ngắn, thân bằng kim loại màu trắng, tay cầm bằng gỗ kích thước (9 x 2,2)cm, phần kim loại có kích thước (11,5 x 2,5) cm. Ngày 01/10/2021 Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 324 gửi Phân viện khoa học hình sự - Bộ công an tại thành phố Hồ Chí Minh, đến nay chưa có kết quả trả lời. Do đó Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tạm giữ làm rõ và xử lý sau.

Đối với 01 giỏ xách màu xám đen, 01 cân tiểu ly, 01 cây kéo bằng kim loại và các vật chứng còn lại sau giám định, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã ra quyết định cHển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết bảo quản chờ xử lý tiếp theo.

Tại Cáo trạng số 197/CT-VKSPT-HS ngày 10/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết đã truy tố bị cáo Võ Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Võ Văn A mức án từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng Điều 56 BLHS, tổng hợp hình phạt 02(hai) năm tù tại Bản án số 86/2021/HS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận buộc bị cáo Võ Văn A chấp hành hình phạt chung của hai bản án. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (26/8/2021).

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản gồm: một phong bì niêm phong số 1067/1 và một túi giấy niêm phong số 1067/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 giỏ xách màu xám đen, không có nhãn hiệu, 01 cân tiểu ly bằng nhựa và kim loại màu trắng, kích thước 7,5 x 04 cm, 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, dài 11,5cm.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng ý với lời luận tội của kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và hứa sẽ trở thành công dân tốt, tuân theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng pháp luật.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, lời khai phạm tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Thuận về vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thu thập theo quy định của pháp luật có tại hồ sơ đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 26/8/2021 tại chốt kiểm soát dịch Covid 19 trên đường F thuộc phường G, thành phố Phan Thiết, Võ Văn A đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,8455 gam là Methamphetamine và 0,1350 gam là Ketamine nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang.Tổng khối lượng của hai chất ma túy mà Võ Văn A đã tàng trữ trái phép 2,9805 gam.

Xét thấy, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương đủ yếu tố cấu thành tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo theo khung hình phạt và điều luật như đã viện dẫn trong cáo trạng là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy, bị cáo có khả năng nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình đối với xã hội, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội mà Nhà nước đã nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã từng bị xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích, thế nhưng bị cáo vẫn xem thường pháp luật, tiếp tục có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bất chấp hậu quả. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để học tập, cải tạo thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật, đồng thời để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về nhân thân: Bị cáo bị Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận áp dụng tình tiết “Tái phạm” xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo bản án hình sự sơ thẩm số 86/2021/HSST ngày 30/9/2021. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo theo quy định của pháp luật. Bản án này đã có hiệu lực pháp luật nên căn cứ vào Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai bản án.

[4] Về tiền án và tiền sự: Bị cáo bị Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 07/03/2016, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/8/2020. Chưa được xóa án tích; Tiền sự: Không. Do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo bị Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 07/03/2016, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 21/8/2020, chưa được xóa án tích. Do đó trong lần phạm tội này hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để tăng nặng hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cho bị cáo là có căn cứ và với mức mà Kiểm sát viên đề nghị là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Trên cơ sở cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định là cần thiết.

[8] Về xử lý vật chứng vụ án:

Qúa trình điều tra xác định xe mô tô biển số 86B6-D.73 thuộc quyền sở hữu của anh Huỳnh Trà Đức H. Ngày 25/8/2021 anh H cho A mượn xe mô tô chở bạn gái đi chơi. Việc A sử dụng xe mô tô nói trên đi mua ma túy anh H không biết, nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết đã xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho anh H là đúng pháp luật. Tại hồ sơ thể hiện anh H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự nên không xét.

Đối với một điện thoại di động loại có phím bấm, màu đen, mặt trước và sau có chữ Nokia, chứa sim số 0865.690.860 và một điện thoại di động loại cảm ứng, vỏ màu đen, mặt sau có chữ Vivo, chứa sim số 0398.132.858 và số tiền 7.700.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến vụ án, nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã trả lại các tài sản trên cho bị cáo là đúng quy định của pháp luật.

Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành, vật chứng không có giá trị, gồm: Một phong bì niêm phong số 1067/1 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; Một túi giấy niêm phong số 1067/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; Một giỏ xách màu xám đen, không có nhãn hiệu; Một cân tiểu ly bằng nhựa và kim loại màu trắng, kích thước 7,5 x 04 cm; Một cây kéo bằng kim loại màu trắng, dài 11,5cm.

[9] Các vấn đề khác:

Đối với một cây súng ngắn, thân bằng kim loại màu trắng, tay cầm bằng gỗ kích thước (9 x 2,2)cm, phần kim loại có kích thước (11,5 x 2,5) cm. Ngày 01/10/2021 Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 324 gửi Phân viện khoa học hình sự - Bộ công an tại thành phố Hồ Chí Minh, đến nay chưa có kết quả trả lời. Do đó Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tạm giữ làm rõ và xử lý sau.

Đối với đối tượng tên E và A (không rõ nhân thân) là người đã mua ma túy dùm và bán ma túy cho bị cáo nhưng bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Xử phạt: Bị cáo Võ Văn A 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 02(hai) năm tù tại Bản án số 86/2021/HS-ST ngày 30/9/2021 của Tòa án nhân dân Huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận buộc bị cáo Võ Văn A chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04(bốn) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 26 tháng 8 năm 2021.

* Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản gồm:

- Một phong bì niêm phong số 1067/1 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;

- Một túi giấy niêm phong số 1067/2 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận;

- Một giỏ xách màu xám đen, không có nhãn hiệu;

- Một cân tiểu ly bằng nhựa và kim loại màu trắng, kích thước 7,5 x 04 cm;

- Một cây kéo bằng kim loại màu trắng, dài 11,5cm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 38 ngày 08 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết).

* Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Võ Văn A phải nộp 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của bị cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/03/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về