Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 40/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố D mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2023/TLST- HS ngày 21 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2024/QĐXXST-HS ngày 14/3/2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang D, sinh năm 1987; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT: số 9 Phố G, phường NT, thành phố D, tỉnh D,.

Chỗ ở : số 20/390 ĐBP, phường BH, thành phố D, tỉnh D.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12 ; Con ông Nguyễn Quang Đ và bà Đinh Thị Vỹ U.

Gia đình 02 anh em. Bị cáo là con thứ hai; Vợ: Bùi Thị Y, sinh năm 1987.

Có 01 con.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Quyết định số 32/QĐ-TA ngày 30/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với Nguyễn Quang D, thời gian 15 tháng (chấp hành xong ngày 14/6/2023).

*Nhân thân:

- Bản án số 01/2007/HSST ngày 31/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xử phạt D 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Bản án số 89/2008/HSST ngày 07/5/2008 của Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh D và Bản án số 75/2008/HSPT ngày 25/6/2008 của Tòa án nhân dân tỉnh D xử phạt 07 năm tù về tội "Cướp tài sản"; tổng hợp với hình phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tại bản án số 01/2007/HSST ngày 31/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình buộc Nguyễn Quang D phải chấp hành hình phạt của 02 bản án là 09 năm tù, được trừ đi 07 tháng 11 ngày đã chấp hành hình phạt của bản án số 01/2007/HSST ngày 31/12/2007 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, buộc D phải chấp hành 08 năm 04 tháng 19 ngày tù, (nộp án phí ngày 14/02/2008 và 11/7/2008, ra trại ngày 26/9/2016).

- Quyết định số 67/QĐ-UBND ngày 02/7/2021 của Chủ tịch UBND phường Nguyễn Trãi, thành phố D, tỉnh D áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn đối với Nguyễn Quang D, thời hạn 04 tháng, kể từ ngày 02/7/2021.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 11/11/2023, chuyển tạm giam từ ngày 17/11/2023 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh D Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Minh T, sinh năm 1991.

2. Chị Mai Phương Th, sinh năm 1990. Anh T, chị Th vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên toà nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân Nguyễn Quang D sử dụng ma tuý Heroine từ năm 2005 đến nay nên vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/11/2023, Nguyễn Quang D đi bộ ra khu vực đầu đường Điện Biên Phủ, phường Bình Hàn, thành phố D gặp và đi nhờ xe môtô của một người đàn ông không quen biết xuống khu vực xã T, thành phố D, tỉnh D, mục đích tìm mua ma túy Heroine. Tại đây, D gặp và mua được của một nam thanh niên (không quen biết) một gói ma túy heroine với số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, D cầm trên tay phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, khi D đi đến khu vực lề đường tỉnh lộ 390, thuộc thôn Du Tái, xã T, thành phố D, tỉnh D thì bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh D kết hợp với Công an xã TiềnTiến, thành phố D kiểm tra bắt quả tang. Thu giữ trong lòng bàn tay phải D đang cầm 01 (một) gói bọc ngoài bằng giấy bạc, kích thước khoảng (0,5x1)cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục mầu trắng, trước sự chứng kiến của anh Lê Minh T và chị Mai Phương Th.

Tại Bản kết luận giám định số 552/KL-KTHS ngày 13/11/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh D:

Mẫu chất bột dang cục mau trăng trong gói giấy bạc được niêm phong trong phong bì, ghi thu của Nguyễn Quang D khối lượng là: 0,231g, gưi giam đinh là ma túy , loại Heroine (Heroin), có tên khoa học là: Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

Tại Phiếu kết quả xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể ngày 11/11/2023 tại Trạm y tế phường Phạm Ngũ Lão, thành phố D đối với Nguyễn Quang D xác định: D dương tính với chất ma túy trong cơ thể.

Bản cáo trạng số 39/CT-VKSTPHD ngày 20/02/2024,Viện kiểm sát nhân dân thành phố D truy tố bị cáo Nguyễn Quang D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Quang D và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 BLHS.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang D từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 11/11/2023.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu huỷ: Lượng ma tuý hoàn lại sau giám định 0,128gam ma túy Heroine; 01(một) mảnh giấy bạc, 01(một) vỏ phong bì niêm phong đựng trong phong bì niêm phong số 552/KL- KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D.

- Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, phù hợp lời khai của bị cáo, người làm chứng, Kết luận giám định, biên bản phạm tội quả tang. Hội đồng xét nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11/11/2023, tại khu vực lề đường tỉnh lộ 390, thuộc thôn Du Tái, xã T, thành phố D, tỉnh D, Nguyễn Quang D đang cất giấu trái phép 0,231g Heroine trong lòng bàn tay phải để sử dụng thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh D kết hợp Công an xã T, thành phố D kiểm tra bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Bị cáo thực hiện hành vi lỗi cố ý biết việc làm của mình là sai vi phạm pháp luật. Bị cáo cất giấu trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 §iều 249 BLHS. Do ®ã víi hµnh vi trªn ViÖn kiÓm s¸t nh©n d©n thµnh phè H¶i Dư¬ng truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an ninh xã hội. Việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc đối với những đối tượng mua, bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách, đạo đức, sức khỏe con người. Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội Cướp tài sản (các bản án đương nhiên được xóa án tích), 01 tiền sự Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng khi bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ra trại bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân lại phạm tội tiếp cùng loại tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy cần có mức án nghiêm đối với bị cáo nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Đối với lượng ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy 0,182 gam Hêroine.

- Đối với 01 (một) mảnh giấy bạc, 01 (một) vỏ phong bì niêm phong đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật được hoàn lại sau giám định không sử dụng được nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Không làm rõ được người thanh niên bán trái phép chất ma túy cho bị cáo D nên không có căn cứ xử lý là phù hợp pháp luật.

[9] Án phí: Bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định mức thu lệ phí, án phí toà án.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136 BLTTHS; Án phí, lệ phí Tòa án; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu lệ phí, án phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang Duy phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang D 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 11/11/2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu huỷ: Lượng ma tuý hoàn lại sau giám định 0,182 gam ma túy Heroine; 01 (một) mảnh giấy bạc, 01 (một) vỏ phong bì niêm phong đựng trong phong bì niêm phong số 552/KL- KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chi cục thi hành án dân sự thành phố D ngày 21/02/2024).

- Án phí: Bị cáo Nguyễn Quang D phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Căn cứ khoản 1 Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Quang D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2024/HS-ST

Số hiệu:40/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về