Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/HSST, ngày 10/4/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023/QĐXXST-HS ngày 20/4/2023 và thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 11/TB-TA, ngày 11/5/2023 đối với bị cáo:

Phạm Văn D (tên gọi khác: Hít L), sinh năm 1982; Nơi sinh: B. HKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố X, thị trấn C, huyện B, tỉnh B; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: không; Con ông: Không rõ; Mẹ: Phạm Thị L1; Anh, chị, em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1971 bị cáo là con út trong gia đình; Vợ, con: chưa có.

Tiền án: Tại Bản án số 27/2014/HSST ngày 22/5/2014, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong án phạt tù vào ngày 16/02/2015. Tại Bản án số 74/2015/HSST ngày 18/9/2015, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong án phạt tù vào ngày 12/03/2016. Tại Bản án số 54/2017/HSST ngày 30/10/2017 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 16/4/2018. Bản án số 39/2019/HSST ngày 27/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong án phạt tù vào ngày 26/10/2020 chưa được xóa án tích.

Tiền sự: không.

Nhân thân: Tại Bản án số 121/2022/HSST ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt tù tại trại giam Xuân Lộc và có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến: Trần Hồng T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 15/12/2022, Công an thị trấn Chợ Lầu tuần tra trên tuyến đường Nguyễn Tất Thành thuộc khu phố A, thị trấn C, huyện B thì phát hiện Phạm Văn D, sinh năm 1982, ở khu phố X, thị trấn Chợ Lầu, huyện B đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên Công an đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với D. Qua kiểm tra, Công an phát hiện D đang cầm 03 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh, được hàn kín 02 đầu, kích thước mỗi đoạn (02 x 01)cm, bên trong mỗi đoạn có chứa chất dạng rắn, chưa xác định khối lượng. D khai nhận vào khoảng 17 giờ 20 phút ngày 15/12/2022, D muốn có ma túy để sử dụng nên D đã đón xe ôm đến khu vực chợ Phan Rí Cửa, huyện P gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) hỏi mua 300.000 đồng ma túy heroine. Người thanh niên này lấy 300.000 đồng đi đâu không rõ, một lúc sau thì người thanh niên quay lại đưa cho D 03 tép ma túy. Sau đó, D thuê xe ôm về lại nhà. Khi đến gần nhà, D xuống xe đi bộ thì bị Công an kiểm tra phát hiện kiểm tra, thu giữ tang vật và lập biên bản đưa về trụ sở Công an làm việc.

Công an thị trấn C đã chuyển hồ sơ cùng tang vật đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận giám định số 1380/KL-KTHS, ngày 26/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

01 phong bì đươc niêm phong còn nguyên vẹn, có các chữ ký ghi tên: Nguyễn Phi Sơn, Bùi Thanh Duy, Phạm Thanh Phố, dấu vân tay màu đỏ ghi “trỏ phải Phạm Văn D” và hình dấu tròn màu đỏ của Công an thị trấn C và Cơ quan điều tra Công an huyện B. Bên trong phong bì có 03 đoạn ống nhựa màu trắng sọc xanh được hàn kín 02 đầu bên trong có chứa chất dạng rắn (ký hiệu M) Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,1282 gam là heroine.

Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B hoàn lại:

- Các đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 0,0701 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1380 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Phạm Văn D, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, có căn cứ xử lý sau.

Về tang, vật chứng của vụ án:

Đối với các đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 0,0701 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1380 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B sẽ chuyển vào kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện B để xử lý theo quy định pháp luật.

Về phần dân sự: Không.

Bản cáo trạng số 40/CT-VKS-HBB ngày 07/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Phạm Văn D, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận vẫn giữ nguyên cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phạm Văn D, mức án từ 5 năm đến 6 năm tù.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo D phải chấp hành chung bản án số: 121/HSST, ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện B với mức án tuyên 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu huỷ: Các đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 0,0701 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1380.

Lời nói sau cùng của bị cáo D: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra – Công an huyện B, Viện kiểm sát nhân dân huyện B: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Văn D đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và kết qủa giám định chất ma tuý.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Đây là vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra vào khoảng 18 giờ 10 phút ngày 15/12/2022, tại khu phố Xuân An 2, thị trấn Chợ Lầu huyện B, do Phạm Văn D đang trên đường mua ma túy về, cất giấu trên người 0,1282 gam heroine với mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện và thu giữ.

Phạm Văn D có 04 tiền án về tội trộm cắp tài sản, tại Bản án số 39/2019/HSST ngày 27/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện B đã áp dụng tình tiết tái phạm chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,1282 gam heroine để sử dụng nên D đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Phạm Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Phạm Văn D khai nhận, việc bị cáo cất giấu ma túy là nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an bắt quả tang thu giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Tội phạm ma túy đang có diễn biễn phức tạp và chiều hướng gia tăng. Ma túy đã gây tác hại to lớn đối với con người và cộng đồng, là nguyên nhân làm mất trật tự, an toàn xã hội, làm nguồn gốc phát sinh các tệ nạn xã hội. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, nên cần áp dụng đối với bị cáo một hình phạt tương xứng cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về xử lý vật chứng: Các đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 0,0701 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1380; Heroin là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Phạm Văn D 05 (m) năm tù.

Tổng hợp hình phạt 09 (Chín) tháng tù tại Bản án số 121/2022/HSST ngày 24/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B; buộc bị cáo Phạm Văn D phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai Bản án là 05 (Năm) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 02 năm 2023.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy: Các đoạn ống nhựa đã cắt lấy mẫu và 0,0701 gam mẫu M còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1380. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/5/2023 giữa Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B.

Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về