Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

 BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, vụ án hình sự thụ lý số 28/2023/TLST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2023/QĐXXST-HS ngày 07/4/2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, tên gọi khác Nguyễn Quang T, Nguyễn Quý T; Giới tính: Nam, sinh ngày 23/03/1979;

- Nơi cư trú: Tổ dân phố 2, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: 5/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn K, sinh năm 1953; Con bà: Đoàn Thị Q, sinh năm 1956; Vợ: Phạm Thị L, sinh năm 1980; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2000, con nhỏ sinh năm 2007; Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em, bị cáo là thứ hai;

- Tiền án: Không.

- Tiền sự: 01 + Ngày 05/5/2021 Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với T trong thời hạn 18 tháng (Quyết định số 09).

- Nhân thân: 05 + Ngày 24/3/2017 Công an thành phố T xử phạt 750.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17) + Ngày 31/3/2017 Công an phường H, thành phố T xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”(Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 22);

+ Ngày 12/6/2017 UBND phường H, thành phố T, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường trong thời hạn 03 tháng (Quyết định số 87);

+ Ngày 30/11/2020 UBND phường H, thành phố T, quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường trong thời hạn 03 tháng (Quyết định số 222);

+ Ngày 23/9/2019 Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 115/2019/HS-ST).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/12/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 00 phút ngày 31/12/2022, Nguyễn Văn T, trú tại tổ dân phố 2, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang một mình điều khiển xe mô tô biển số 22K2-1xxx (xe của T) đi từ nhà đến khu vực Cầu Chả thuộc phường H, thành phố T, mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Đến nơi, T gặp một người đàn ông tên L (T không biết rõ họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể) và hỏi mua được 01 gói ma túy (Heroine) bên ngoài gói bằng giấy bạc một mặt màu trắng, một mặt màu vàng, bên trong có chứa chất bột vón cục màu trắng với giá 300.000 đồng. Sau đó, T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Khi đi đến khu vực gần trung tâm thương mại Vincom thuộc tổ 11, phường P, thành phố T thì bị tổ công tác của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T yêu cầu kiểm tra, T đã tự nguyện giao nộp 01 gói ma túy đang cầm trong lòng bàn tay trái. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Đồng thời tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Thân, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể (T khai đã sử dụng ma túy vào khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, nguồn gốc ma túy cũng mua của người đàn ông tên L ở khu vực Cầu Chả).

Tại bản kết luận giám định số 128/GĐKTHS ngày 05/01/2023 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu gửi giám định là chất ma túy, loại Heroin khối lượng 0,191g (không phẩy một chín một gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 39/CT-VKSTP ngày 29 tháng 3 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 31/12/2022. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số Heroine còn lại sau giám định; Trả cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 22K2-1xxx; Tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 30 phút ngày 31/12/2022, tại khu vực Trung tâm thương mại Vincom thuộc tổ 11, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn T, trú tại tổ dân phố 2, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,191g (không phẩy một chín một gam) Heroine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo Nguyễn Văn T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; khối lượng Heroine mà bị cáo cất giữ trái phép dưới 5 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có bố đẻ ông Nguyễn Văn K được tặng Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng ba nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T; Bị cáo có tiền sự, nhân T xấu nhiều lần bị xử lý về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy làm bài học rút kinh nghiệm mà còn tiếp tục phạm tội. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[6] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 (một) phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của NguyễnVăn Thân, chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,141 gam Heroin (số còn lại sau khi lấy mẫu giám định); tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 22K2-1xxx. HĐXX xét thấy: Đối với khối lượng ma túy còn lại (sau khi giám định) đã thu giữ của bị cáo được niêm phong theo quy định là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với xe mô tô xét thấy bị cáo sử dụng mục đích làm phương tiện đi lại, không sử dụng vào mục đích là phương tiện phạm tội nên trả cho bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông tên L bán ma túy cho Thân, do không xác định được họ, tên đệm, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xem xét xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T ngày 31/12/2022, Công an thành phố T đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0001443/QĐ-XPVPHC, hình thức phạt tiền, mức tiền phạt 1.500.000đ.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có mặt tại phiên tòa nên bị cáo được quyền kháng cáo bản trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 31/12/2022.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn T , chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 0,141 gam Heroin (khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định);

- Trả cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát 22K2-1xxx.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T ngày 04/4/2023 3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 18/4/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về