Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 10/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 8 năm 2023, tại Ủy ban nhân dân xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2023/HSST ngày 12 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Diệp Văn H, sinh ngày 16/10/1981; trú tại: Thôn Đ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; văn hóa: 0/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam; con ông Diệp Văn T (đã chết) và bà Diệp Thị L; có vợ là Lâm Thị T và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2014); tiền án: Không; tiền sự: 02 Ngày 22/8/2022, bị UBND xã Tam Quan lập hồ sơ áp dụng biện pháp giáo dục xã phường theo quyết định số 494/QĐ-XPTT; chấp hành xong ngày 22/11/2022;

Ngày 26/12/2022, bị Công an xã Tam Quan, huyện Tam Đảo xử lý vi phạm hành chính về tội Trộm cắp tài sản (mèo) theo quyết định số 632/QĐ-XPHC; đã nộp phạt ngày 27/12/2022.

Nhân thân: Ngày 25/6/2020, bị UBND xã Tam Quan lập hồ sơ áp dụng biện pháp giáo dục xã phường theo quyết định số 01/QĐ-UBND; chấp hành xong ngày 22/9/2020;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

* Người bào chữa cho bị cáo Diệp Văn H: Ông Lê Văn D - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

* Người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Diệp Thị L, sinh năm 1953; trú tại: Thôn Đ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 02/3/2023, Diệp Văn H một mình điều khiển xe đạp điện đi lên khu vực thôn Đồng Cà, xã Bồ Lý, huyện Tam Đảo để tìm mua ma túy sử dụng. Tại đây, H gặp và hỏi mua được của một người đàn ông khoảng 25 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) 01 gói ma túy Heroin với giá 500.000đ. Sau khi mua được ma túy, khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, H cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Cơ quan điều tra đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các vật chứng gồm: Thu tại lòng bàn tay phải của H 01 gói giấy màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng, H khai nhận đây là gói ma túy Heroine vừa mua được với giá 500.000đ mục đích để sử dụng, được niêm phong đúng quy định, ký hiệu A1; thu giữ tại túi quần bên trái phía trước của H số tiền 70.000 đồng, được niêm phong ký hiệu A2; thu giữ trong túi áo ngực phía trước H đang mặc 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng; tạm giữ của H 01 xe đạp điện cũ, đã qua sử dụng. Cùng ngày 02/3/2023, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc khám xét khẩn cấp nơi ở của Diệp Văn H tại địa chỉ nêu trên nhưng không thu giữ tài sản, đồ vật gì.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã ra Quyết định trưng cầu giám định chất ma tuý trong mẫu A1. Tại Kết luận giám định số 518/KL- KTHS ngày 02/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Chất cục bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1810 (không phảy một tám một không gam, không kể bao bì), loại Heroine”. Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm 0,1603 gam mẫu và toàn bộ bao gói.

Quá trình điều tra xác định:

Đối với số tiền 70.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo do lao động mà có, không liên quan đến việc phạm tội;

Đối với chiếc xe đạp điện H sử dụng đi mua ma túy thuộc sở hữu của bà Diệp Thị Làm, ngày 02/3/2023, H mượn bà Làm chiếc xe đạp điện nêu trên nói dối để đi làm ruộng rồi sử dụng đi mua ma túy. Việc H sử dụng phương tiện đi mua ma túy bà Làm không biết nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với bà Làm;

Đối với người đàn ông bán ma túy cho H, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của người này, ngoài lời khai của bị can không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xử lý.

Tại Cáo trạng số 33/CT-VKSTĐ ngày 12/6/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đã truy tố Diệp Văn H về tội “Tàng trữ phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà đã phân tích hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Diệp Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Diệp Văn H từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,1603g mẫu cùng toàn bộ bao gói; trả lại cho Diệp Văn H số tiền 70.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; trả lại cho bà Diệp Thị L chiếc xe đạp điện H sử dụng đi mua ma túy là tài sản hợp pháp của bà Diệp Thị Làm;

Tại phiên tòa bị cáo Diệp Văn H đã thành khẩn khai nhận và rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, khi nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đã phân tích hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, hoàn cảnh gia đình, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với các chứng cứ khác đã được thu thập và phù hợp với Cáo trạng đã được Đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Do vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Diệp Văn H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt của bị cáo được qui định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;”.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý. Ma tuý là một tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, là nguyên nhân phát sinh của nhiều loại tội phạm khác, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã và đang có tiền sự về các hành vi vi phạm pháp luật nhưng không chịu tu dưỡng mà còn tiếp tục tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung;

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do vậy cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có thu nhập nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,1603g mẫu cùng toàn bộ bao gói, trả lại cho Diệp Văn H số tiền 70.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; cần trả lại cho bà Diệp Thị L chiếc xe đạp điện H sử dụng đi mua ma túy là tài sản hợp pháp của bà Diệp Thị Làm;

[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Diệp Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Diệp Văn H 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 02/3/2023;

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật ma túy do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại sau giám định là M1 = 0,1603g mẫu cùng toàn bộ bao gói; trả lại cho Diệp Văn H số tiền 70.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; trả lại cho bà Diệp Thị L chiếc xe đạp điện H sử dụng đi mua ma túy là tài sản hợp pháp của bà Diệp Thị L;

(có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/8/2023)

4.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án án số 326/2016/PL-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016: Miễn cho bị cáo 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về