Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 394/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 394/2022/HS-PT NGÀY 27/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27/5/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 88/2022/TLPT-HS ngày 24/01/2022 do có kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên.

* Bị cáo có kháng cáo:

Phạm Văn A, tên gọi khác: Không, sinh năm 1978 tại Hưng Yên;

Nơi cư trú: Thôn B1, phường B, thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Tiến V và bà Vũ Thị H; có vợ Đinh Thị C và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2015;

Tiền án, tiền sự: Ngày 12/12/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên xử phạt 09 tháng tù về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 58/2018/HS-ST; ngày 20/01/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Nhân thân:

- Năm 1997 bị Tòa án nhân dân thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên xử phạt 27 tháng tù về tội “Cướp tài sản công dân” tại bản án số 33/1997/HSST;

- Năm 2005 bị Công an phường B, thị xã Hưng Yên xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong;

- Năm 2006 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 23/2006/HSST;

- Năm 2010 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường B xử phạt hành chính bằng biện pháp giáo dục tại xã, phường;

- Năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 79/2010/HSST; ngày 05/10/2011 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hưng Yên tiến hành điều tra đối với Ứng Văn A1 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra Ứng Văn A1 khai nhận đã mua ma túy của Phạm Văn A, sinh năm 1978; nơi cư trú: Thôn B1, phường B, thành phố Hưng Yên. Ngày 13/10/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn A, thu giữ: 01 túi nilon màu đỏ bên trong chứa 01 gọi giấy chứa chất màu trắng dạng cục và bột (nghi là Heroine) nên đã tiến hành niêm phong theo quy định. Ngoài ra, còn thu giữ 02 chiếc cân điện tử và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Trong quá trình khám xét, Phạm Văn A đã chủ động cho một gói giấy vào miệng để nuốt; Cơ quan Điều tra đã đưa Phạm Văn A đến Bệnh viện đa khoa Hưng Hà để tiến hành gắp dị vật do A nuốt là 01 gói giấy có dòng kẻ, bên trong chứa chất màu trắng dạng cục và bột tại vị trí đoạn 1/3 trên thực quản (nghi là ma túy) nên đã tiến hành niêm phong theo quy định.

Tại Kết luận giám định số 323/PC09 ngày 13/10/2021 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận:

- Chất màu trắng dạng cục và bột bên trong gói ký hiệu MT1 có khối lượng 0,028 gam là ma túy loại Heroine.

- Chất màu trắng bám dính trên 01 chiếc cân điện tử màu đen, trên nắp đậy có chữ “POCKET SCALE” màu trắng không xác định được khối lượng, là ma túy loại Heroine.

- Chất màu trắng bám dính trên 1 chiếc cân điện tử màu đen, trên nắp đậy có chữ “GHL POCKET SCALE” màu trắng không xác định được khối lượng, là ma túy loại Heroine.

- Chất màu trắng dạng cục và bột được niêp phong ký hiệu MT5 có khối lượng 0,389 gam là ma túy loại Heroine.

Quá trình điều tra và tại phên tòa sơ thẩm, bị cáo Phạm Văn A khai nhận: Khoảng 7 giờ ngày 12/10/2021, bị cáo đi đến khu vực cầu Yên Lệnh, thuộc địa bàn phường B, thành phố Hưng Yên gặp một người thanh niên khoảng 40 tuổi, bị cáo đã mua của người này 500.000đ tiền ma túy; sau đó bị cáo mang về nhà chia nhỏ để sửng dụng dần, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Cơ quan Điều tra khám xét thu giữ; bị cáo chỉ thừa nhận mua ma túy về cất để sử dụng dần, không bán ma túy cho ai, không bán ma túy cho Ứng Văn A1 như A1 đã khai.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2021/HS-ST, ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn A 03 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 13/10/2021.

Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, buộc nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/12/2021 bị cáo Phạm Văn A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo A giữ nguyên nội dung kháng cáo.

* Bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận hình vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết. Tuy nhiên, với mức hình phạt 03 tù như bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là cao so với hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo thấy cấp sơ thẩm xét xử, quy kết bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, nhưng xử phạt bị cáo 03 năm tù là có phần nghiêm khắc. Vì khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ chỉ 0,417g, quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải, vợ bị cáo đang mang thai, nên có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, đề nghị căn cứ Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm và giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Văn A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết; lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đặc biệt là kết quả khám xét khẩn cấp, kết luận giám định. Vì vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Phạm Văn A là đối tượng nghiệm chất ma túy, nên đã mua ma túy về cất dấu để sử dụng dần. Ngày 13/10/2021 khi khám xét nơi ở của Phạm Văn A đã thu giữ được tổng khối lượng 0,417 gam Heroine. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; cấp sơ thẩm đã xét xử, quy kết bị cáo về tội danh trên theo Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; bị cáo không bị oan.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, nó không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, ma túy là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,417 gam Heroine, nên cấp sơ thẩm đã quy kết, xét xử bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A, Hội đồng xét xử thấy: Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng khối lượng ma tuý bị cáo tàng trữ; đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; về nhân thân bị cáo đã nhiều lần bị kết án bằng hình phạt nghiêm khắc là hình phạt tù, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, nên cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo ở mức 03 năm tù. Tuy nhiên, mặc dù bị cáo có một tình tiết tăng nặng là tái phạm và một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng với khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ chỉ 0,417 gam Heroine. Hơn nữa, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn hiện các còn còn nhỏ, vợ bị cáo mới sinh con, bản thân bị cáo và vợ không có việc làm ổn định, được chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tiếp tục khai báo thành khẩn và thật sự thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã tự nguyện nộp số tiền án phí sơ thẩm, nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Do đó, có căn cứ chấp nhận kháng cáo để giảm cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị chấp nhận kháng cáo sửa bản án sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

[4] Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Do vợ bị cáo đã nộp thay bị cáo số tiền án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ, nên cần ghi nhận cho bị cáo.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn A; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 105/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Văn A 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo là ngày 13/10/2021.

Về án phí: Bị cáo Phạm Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Ghi nhận bị cáo Phạm Văn A đã nộp số tiền 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo biên lại thu tiền số 0000152, ngày 25/5/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hưng Yên.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 105/2021/HS-ST ngày 14/12/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 394/2022/HS-PT

Số hiệu:394/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về