Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 39/2023/HS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Văn T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 15/6/1984 tại huyện T, tỉnh Hòa Bình; nơi cư trú: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn S và bà Bùi Thị L; có vợ là Bùi Thị T1 (Đã ly hôn) và có 01 con; tiền án: Năm 2020 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù, về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (Bản án số 29/2020/HS-ST ngày 28/10/2020). Bị cáo mới chấp hành xong án phạt tù của bản án ngày 18/6/2021; tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 23/5/2023 và chuyển tạm giam từ ngày 01/6/2023 cho đến nay. Có mặt.

Người chứng kiến: Anh Bùi Văn N, sinh năm 1977; nơi cư trú: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 23/5/2023, Bùi Văn T đi bộ từ nhà mình ra đường Q, rồi bắt xe buýt đến khu vực ngã ba xóm T, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình, để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi xe buýt đi đến khu vực cánh đồng, cạnh đường Q thuộc địa phận xóm T, xã T, huyện L, tỉnh Hòa Bình, T xuống xe buýt. Tại đây, T gặp một người đàn ông không quen biết đang ngồi trên chiếc xe mô tô dựng ở bên đường. Người đàn ông đó có đặc điểm khoảng 30 tuổi, cao khoảng 1m75, mặc quần dài tối màu, áo phông xanh, đeo khẩu trang. T đi đến chỗ người đàn ông và hỏi có biết ai bán “trắng” (Heroine) không. Người đàn ông trả lời có và hỏi T muốn lấy bao nhiêu. T trả lời muốn lấy 200.000 đồng “trắng” (Heroine). Người đàn ông bảo T ngồi đợi, rồi người đàn ông đó điều khiển xe mô tô đi về hướng T - L. Khoảng 15 phút sau, người đàn ông quay lại, đưa cho T 02 gói được quấn bằng giấy, bên trong là lớp nilon màu xanh, trong cùng mỗi gói đều chứa ma túy, loại H và T đã trả cho người đàn ông số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng. Sau đó, T cất gói ma túy vào túi quần của mình và đón xe buýt đi về nhà. Tại nhà của mình, T đã lấy một lượng ma túy trong 01 gói ma túy vừa mua được để sử dụng bằng hình thức hít trực tiếp. Số ma túy còn thừa của gói này, T gói lại và dùng bật lửa hơ lớp nilon màu xanh. Sau đó, T cất cả 02 gói ma túy vào túi nilon màu trắng và cất giấu ở giường ngủ của mình. Đến 10 giờ 30 phút, ngày 23/5/2023, tổ công tác của Công an huyện T phối hợp với Công an xã T tiến hành thu thập dữ liệu dân cư trên địa bàn xã. Khi làm nhiệm vụ tại nhà của Bùi Văn T, tổ công tác phát hiện T có biểu hiện hoạt động phạm tội về ma túy. Quá trình làm việc, T đã khai nhận bản thân vừa sử dụng ma túy, có cất giấu ma túy trong nhà. Sau đó, T đi vào giường ngủ của mình lấy ra một túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 01 gói được quấn bằng giấy, tiếp đến là lớp nilon màu xanh, trong cùng chứa chất bột màu trắng và 01 gói được quấn bằng nilon màu xanh, bên trong chứa chất nghi là mà ma túy. T khai nhận các gói trên là ma túy, loại Heroine của T mua được của một người đàn ông không quen biết ở huyện L ngày 23/5/2023 để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã đưa T cùng toàn bộ vật chứng về trụ sở UBND xã T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 221/KL-KTHS, ngày 31/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh H kết luận: Chất bột màu trắng ký hiệu M1, M2 trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ vụ: Bùi Văn T, sinh năm: 1984, nơi thường trú: Xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình có hành vi phạm tội về ma túy - Phát hiện, bắt quả tang tại xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình ngày 23/5/2023” gửi giám định có tổng khối lượng 0,03g (Không phẩy không ba gam), là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 06/9/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn T một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi của mình đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Ý kiến của người chứng kiến là anh Bùi Văn N tại phiên tòa: Anh Bùi Văn N được chứng kiến Công an huyện T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn T và lập biên bản niêm phong đồ vật tạm giữ của Bùi Văn T ngày 23/5/2023. Các hoạt động tố tụng mà anh N được chứng kiến nêu trên phù hợp với các tình tiết của vụ án và đã được xem xét công khai tại phiên toà.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xử phạt bị cáo từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu của bị cáo Bùi Văn T toàn bộ khối lượng ma túy còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K Công an tỉnh H để tiêu hủy.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo Bùi Văn T không có ý kiến tranh luận.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất, để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T thu thập hợp pháp gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bùi Văn T ngày 23/5/2023; Vật chứng thu được của bị cáo Bùi Văn T là một túi nilon màu trắng, bên trong có chứa 01 gói được quấn bằng giấy, tiếp đến là lớp nilon màu xanh, trong cùng chứa chất bột màu trắng và 01 gói được quấn bằng nilon màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng mà bị cáo khai là ma túy, loại Heroine, mua được để sử dụng cho bản thân; Kết luận giám định số 221/KL-KTHS, ngày 31/5/2023 của Phòng K Công an tỉnh H; Bản án hình sự sơ thẩm số 29/2020/HS-ST, ngày 28/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xử phạt Bùi Văn T 12 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Bùi Văn T trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang. Được chứng minh bằng vật chứng thu được, kết luận giám định chất ma túy cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 23/5/2023, tại nhà ở của Bùi Văn T tại xóm N, xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Tổ công tác của Công an huyện T và Công an xã T đã phát hiện, bắt quả tang bị cáo Bùi Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có tổng khối lượng là 0,03g (Không phẩy không ba gam) Heroine, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Bùi Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tuy khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép là 0,03g (Không phẩy không ba gam) Heroine, nhưng bản thân bị cáo đã có một tiền án, bị Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xử phạt 12 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (Chưa được xóa án tích). Do đó, hành vi của bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy ngày 23/5/2023 đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hiểm họa của toàn thể nhân loại, là tệ nạn xã hội mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang ra sức đấu tranh, cấm mua bán, tàng trữ, sử dụng, nhằm loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội. Nhưng do nghiện ma túy, nên bị cáo vẫn cố tình mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Điều đó, thể hiện ý thức coi thường pháp luật, kỷ cương của Nhà nước.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mặt khác, bị cáo có bác ruột là Bùi Văn S1 là liệt sĩ hy sinh vì sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng ba. Đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy và không có tài sản gì có giá trị cao, nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ.

[7] Đối với người đàn ông mà bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được tên và địa chỉ của người này, nên không xem xét xử lý trong vụ án. Khi nào cơ quan điều tra làm rõ được sẽ xem xét, xử lý sau.

[8] Xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với một phong bì được Phòng K Công an tỉnh H niêm phong chất ma túy của bị cáo còn lại sau khi đã giám định. Xét đây là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, nên phải tịch thu để tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 23/5/2023).

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ khối lượng Heroine của bị cáo Bùi Văn T còn lại sau khi giám định, đã được niêm phong trong một phong bì của Phòng K Công an tỉnh H. Trên phong bì ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định. Vụ Bùi Văn T - Có hành vi phạm tội về ma túy. Xảy ra ngày 23/5/2023 tại xã T, huyện T, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có dấu niêm phong của Phòng K Công an tỉnh H và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc theo biên bản giao nhận vật chứng số 40/BB-THA, ngày 12/9/2023 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Lạc).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Văn T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình để xin xét xử phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2023/HS-ST

Số hiệu:39/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về