Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 39/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG LÁT, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 16/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16/11/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 39/2021/TLST-HS ngày 19/10/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST-HS ngày 03/11/2021 đối với bị cáo:

Sùng Thị C ; sinh năm: 1982, tại xã C, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản O, xã T, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Dân tộc: Mông; Nghề nghiệp: Trồng trọt. Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Con ông: Sùng A L , con bà: Giàng Thị T (Bố và mẹ bị cáo đều đã chết); Chồng: Giàng A V , sinh năm: 1979 (Đang đi chấp hành án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy). Có 06 người con, lớn nhất sinh năm 2000 và con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án; Tiền sự: Không. Bị tạm giữ ngày 28/5/2021, chuyển tạm giam ngày 02/06/2021. Có mặt tại phiên tòa.

Người phiên dịch: Lâu Văn Q ; Dân tộc: Mông; Trú tại: Bản P, xã N, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hà Văn K - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa.

Vắng mặt, có bản luận cứ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 27/5/2021, bị cáo đi bộ từ nhà theo đường mòn qua khu vực Mốc giới 272 sang bản Pưng, huyện Sốp Bâu (Nước CHDCND Lào) để tìm mua ma túy sử dụng. Trên đường đi bị cáo vào một chòi rẫy để nghỉ ngơi, tại đây bị cáo gặp một người đàn ông người Mông (Lào) không biết tên, tuổi, địa chỉ nhưng trước đó đã từng gặp người đàn ông này một vài lần ở chòi rẫy này. Khi gặp nói chuyện bị cáo có hỏi mua nợ ma túy, người này đồng ý và bán cho bị cáo 04 (bốn) cục chất bột màu trắng là Heroine và 20 (hai mươi) viên nén hình trụ tròn màu hồng là Hồng phiến (ma túy tổng hợp) giá thỏa thuận là 1.400.000đ (một triệu bốn trăm nghìn đồng). bị cáo nhận số ma túy trên và hẹn khi nào có tiền sẽ quay lại tìm người này trả tiền. Sau khi đưa ma túy cho bị cáo người này đi khỏi chòi rẫy còn bị cáo lấy 03 (ba) cục Heroine gói lại bằng gói nilon màu đỏ, 01 (một) cục Heroine bỏ vào hộp nhựa tròn dẹt màu trắng đỏ, 20 (hai mươi) viên Hồng phiến gói lại bằng gói nion màu hồng và cho toàn bộ số ma túy vào túi vải màu xanh đen mang theo trên người. Sau đó ngủ lại chòi rẫy, đến khoảng 8 giờ 30 phút ngày 28 tháng 5 năm 2021 bị cáo đi bộ theo đường cũ về nhà. Khi về đến khu vực bản O, xã T, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa thì Tổ công tác của Đồn biên phòng T, BĐBP tỉnh Thanh Hóa yêu cầu dừng lại kiểm tra, quá trình kiểm tra tổ công tác phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy mà bị cáo cất giấu trong túi vải mang theo trên người.

Tại bản kết luận giám định số 1760/PC09 ngày 31/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận vật chứng thu giữ của bị cáo như sau:

- 03 (ba) cục chất bột màu trắng ngà đựng trong gói nilon màu đỏ của phong bì niêm phong gửi dám định là ma túy, có tổng khối lượng 6,482g (sáu phẩy bốn tám hai gam) loại: Heroine.

- 01 (một) cục chất bột màu trắng ngà đựng trong hộp nhựa tròn dẹt, màu trắng đỏ của phong bì niêm phong gửi dám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,335g (không phẩy ba ba năm gam) loại: Heroine.

- 20 (hai không) viên dạng nén tròn dẹt màu hồng, trên bề mặt các viên có ký hiệu “WY” đựng trong gói nilon màu hồng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 2,016g (hai phẩy không một sáu gam) loại: Methamphetamine.

Tổng lượng ma túy bị cáo tàng trữ là: 8,833g (Tám phẩy tám ba ba gam) Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số: 45/CT-VKS-MT ngày 19/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tranh luận và luận tội: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo khẳng định không ai súi dục hay ép buộc nhận tội thay người khác; Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy Về điều luật: Áp dụng: Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS;

Về hình phạt:

Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, vì bị cáo làm trồng trọt, thu nhập thấp nên không có tính khả thi.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Số tiền 1.400.000 đồng bị cáo mua nợ ma túy là do bị cáo khai một chiều, không có cơ sở để xử lý.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng biện pháp ép cung, bức cung hay nhục hình, bị cáo khai, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy trái phép để sử dụng là vi phạm pháp luật và bị Nhà Nước nghiêm cấm nhưng do bản thân bị nghiện chất ma túy, không kìm chế được bản thân nên đã cố tình phạm tội. Bị cáo công nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã nêu là đúng, bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới.

Ý kiến người bào chữa: Người bào chữa vắng mặt nhưng có bản luận cứ. Đồng tình với quan điểm truy tố của VKS về tội danh, điều luật áp dụng và khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Người bào chữa cho rằng: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện Kinh tế - Xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ cận nghèo nên đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS, xử mức án thấp nhất, tạo điều kiện để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về với gia đình và xã hội, bản thân trở thành công dân có ích và không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Ý kiến bị cáo: Bị cáo nhận tội, đồng tình với luận cứ bào chữa, không thay đổi, bổ sung thêm gì làm thay đổi nội dung vụ án, không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm được về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Lát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; Tòa án nhân dân huyện Mường Lát, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa cho bị cáo và bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội, không có tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Xét lời khai nhận tội của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và chứng cứ khác trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Bị cáo tàng trữ 8,833g (Tám phẩy tám ba ba gam) gồm Heroine và methamphetamine, mục đích đem về sử dụng đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại Bộ luật hình sự Nước CHXHCN Việt Nam.

Hành vi của bị cáo là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà Nước. Hiện nay ma túy đang trở thành hiểm họa lớn cho toàn xã hội về tác hại của nó, ma tuý là nguyên nhân phát sinh những tội phạm khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện.

Với tính chất vụ án, hành vi và năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.

Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Với các tình tiết này HĐXX xem xét xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[4] Xét về hình phạt:

Hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về mức hình phạt cho bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội và khối lượng chất ma túy thu giữ, đã đủ sức răn đe, phòng ngừa chung.

Hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, cho thấy bị cáo làm trồng trọt thu nhập không ổn định, gia đình là hộ cân nghèo. HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Xét về vật chứng trong vụ án:

Số ma túy còn lại sau giám định là chất Nhà nước Việt Nam cấm lưu hành, cần tịch thu, tiêu hủy.

Tang vật của vụ án hiện đang được bảo quản tại kho tang vật Chi cục THADS huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

[6] Xét về phần án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo được miễn án phí HSST và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7] Các nhận định khác:

Theo lời khai của bị cáo, người đàn ông ở bản Pưng, huyện Sốp Bâu (Nước CHDCND Lào) đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ người này. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Lát tiếp tục xác minh làm rõ khi đủ căn cứ sẽ xử lý ở một vụ án khác.

Số tiền 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng), bị cáo khai mua nợ là lời khai một chiều phía bị cáo nên không có cơ sở xem xét.

Vì các lẽ trên:

Về điều luật:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 260 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ: Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

Căn cứ: Điều 135, Điều 136 BLTTHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Căn cứ: Điều 331, Điều 333 và Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về tội danh:

Tuyên: Sùng Thị C phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý

Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử bị cáo 6 (Sáu) năm 6 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày tạm giữ (28/5/2021).

- Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về tang vật: Tịch thu tiêu hủy:

Phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành sau giám định được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên của Nguyễn Trần Đ , Cút Văn T và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đOg giáp lai. Phong bì niêm phong còn nguyên vẹn.

Vật chứng kể trên đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa, theo Quyết định chuyển vật chứng số 36/QĐ- VKS-ML, ngày 19/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Lát và Biên bản giao nhận vật chứng số: 04/2021/TV-CCTHADS ngày 19/10/2021 giữa Công an huyện Mường Lát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Bị cáo được miễn tiền án phí HSST.

Quyền kháng cáo, kháng nghị:

Án xử công khai; có mặt bị cáo; vắng mặt người bào chữa, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 39/2021/HS-ST

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Lát - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về