Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 20/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 20/4/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang và điểm cầu tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2023/TLST-HS, ngày 14 tháng 3 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2023/QĐXXST-HS, ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Văn L, sinh ngày 21/02/1987; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn H, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn C, sinh năm 1961 và bà Hoàng Thị C1, sinh năm 1961; Vợ: Hoàng Kim A, sinh năm 1993; Con: Có 01 con, sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị N – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

Những làm chứng: Ông Ma Công K. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 20/12/2022, Lương Văn L, sinh ngày 21/02/1987, cư trú tại thôn H, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, là người sử dụng ma túy, đi bộ sang khu vực Đèo Khế thuộc xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên tìm mua ma túy để sử dụng. L gặp và hỏi mua của một người đàn ông không xác định được tên tuổi, địa chỉ được 01 gói ma túy gói bằng mảnh giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng, với số tiền 200.000 đồng. Sau đó L cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần bên phải đang mặc, đi bộ về đến thôn Đèo Khế, xã H, huyện Sơn Dương, thì bị Tổ công tác Công an xã H kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 10 giờ 00 phút cùng ngày, L giao nộp 01 gói ma túy cất trong túi quần.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể Lương Văn L, kết quả: (+) dương tính với ma túy, loại Heroine. L khai nhận ngày 19/12/2022 L đã sử dụng ma túy tại xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Tại kết luận giám định số 368/KL-KTHS ngày 24/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật (thu giữ của Lương Văn L) gửi giám định là chất ma tuý, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,105g (Không phẩy một không năm gam).

Vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã tạm giữ 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa chất ma túy (đã giám định); bên ngoài mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và Lương Văn L, mặt trước ghi “Tang vật vụ Lương Văn L giám định ngày 20/12/2022”; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, số seri 356107167414229, bên trong có 01 sim điện thoại.

Từ nội dung trên, tại Cáo trạng số 40/CT-VKSSD, ngày 13/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Lương Văn L về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Lương Văn L phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Lương Văn L từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa chất ma túy (đã giám định); bên ngoài mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và Lương Văn L, mặt trước ghi “Tang vật vụ Lương Văn L giám định ngày 20/12/2022”;

Đề nghị trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, số seri: 356107167414229, bên trong có 01 sim điện thoại.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn nộp án phí sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với tội danh, điều luật Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt; không áp dụng hình phạt bổ sung và đề nghị miễn nộp án phí sơ thẩm đối với bị cáo.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 00 phút ngày 20/12/2022, tại thôn Đèo Khế, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lương Văn L, sinh ngày 21/02/1987, cư trú tại thôn H, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,105g (Không phẩy một không năm gam) Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của Lương Văn L đã phạm vào Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như cáo trạng là có căn cứ pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật. Vì vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam trong thời gian nhất định, để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

Xét bị cáo không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa chất ma túy (đã giám định); bên ngoài mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và Lương Văn L, mặt trước ghi “Tang vật vụ Lương Văn L giám định ngày 20/12/2022”. Đây là vật chứng của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, số seri: 356107167414229, bên trong có 01 sim điện thoại, là tài sản bị cáo sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[6] Các vấn đề khác.

Đối với người đàn ông theo L khai nhận là người bán ma túy cho L ở khu vực Đèo Khế, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên nhưng không xác định được tên tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 19/12/2022 của Lương Văn L tại xã Yên Lãng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã chuyển hồ sơ, tài liệu đến Công an huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên để xử lý vi phạm hành chính, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lương Văn L phạm Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lương Văn L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 20/12/2022).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, bên trong chứa chất ma túy (đã giám định); bên ngoài mặt sau trên các mép dán có hình dấu niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Tuyên Quang, chữ ký xác nhận của thành phần tham gia niêm phong và Lương Văn L, mặt trước ghi “Tang vật vụ Lương Văn L giám định ngày 20/12/2022”.

- Trả lại cho bị cáo Lương Văn L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen, đã qua sử dụng, số seri: 356107167414229, bên trong có 01 sim điện thoại.

Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương.

4. Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (20/4/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về