Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 04/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Quốc Đ, sinh năm 1989 tại Đồng Tháp; nơi cư trú: khóm HK, Phường H, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H (chết) và bà Lê Thị Kim L; vợ, con: Không.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 06/7/2007, bị Tòa án nhân dân thị xã SĐ, tỉnh Đồng Tháp xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/11/2009.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/10/2022 cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Võ Hồng V, sinh năm 1978; nơi cư trú: Ấp H, xã VB, huyện VT, tỉnh Hậu Giang; vắng mặt.

2. Lại Đức H, sinh năm 1973; nơi cư trú: Khóm H, Phường H1, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Nguyễn Ngọc N, sinh năm 1961; nơi cư trú: Khóm N, Phường C, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 31/10/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố V kết hợp với Phòng Cảnh sát điều tra hình sự về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Long tuần tra tại khóm N, Phường C, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long thì phát hiện Lại Đức H điều khiển xe mô tô biển số 95B1-480.77 chở Lê Quốc Đ ngồi phía sau có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của Đ có 01 gói giấy bạc, bên trong có chứa chất màu trắng. Qua làm việc, Đ khai nhận chất màu trắng bên trong gói giấy bạc là chất ma túy, loại Heroine của Đ vừa mua của một người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể ở Khu vực Phường M, thành phố V với giá 240.000 đồng mục đích để sử dụng, H là người chạy xe do Đ thuê, không liên quan đến chất ma túy do Đ cất giấu. Tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đ và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Quốc Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và đồng ý với quyết định truy tố. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Võ Hồng V vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình điều tra ông xác định xe mô tô biển số 95B1-480.77 do ông đứng tên cách đây khoảng 6-7 năm và đã bán cho ai, thời gian nào thì ông không nhớ và cũng không có làm giấy tờ mua bán, ông xác định không quen biết với Lại Đức H. Ông không có ý kiến và yêu cầu gì đối với xe mô tô biển số 95B1-480.77.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lại Đức H vắng mặt tại phiên tòa. Quá trình điều tra xác định ông chạy xe honda khách cũng là bạn xã hội của bị cáo. Khi nhận lời chở bị cáo thì không biết mục đích của bị cáo là đi mua chất ma túy, sau khi sự việc xảy ra mới biết.

Người chứng kiến Nguyễn Ngọc N vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình điều tra cũng đã xác định diễn biến sự việc đúng như cáo trạng đã nêu.

Tại bản Kết luận giám định số: 807/KL-KTHS ngày 03/11/2022 (BL 26) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: Mẫu chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc trong gói niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,1981 gam, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 40/CT-VKS-TPVL ngày 13/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Lê Quốc Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, khẳng định nội dung cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật giữ nguyên việc truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Quốc Đ mức án từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong sau giám định có đóng dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận, không ý kiến đối đáp; lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản ghi lời khai của người chứng kiến, lời khai bị cáo trong suốt quá trình điều tra và cũng như tại phiên tòa hôm nay và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, xét có căn cứ để xác định vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 31/10/2022, tại Khu vực Khóm N, Phường C, thành phố V, bị cáo Lê Quốc Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có thành phần Heroine, khối lượng 0,1981 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Long truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

[3] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước ta về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, là nguyên nhân mầm mống phát sinh nhiều loại tội phạm khác và còn là một trong những nguyên nhân gây lây lan căn bệnh HIV- AIDS. Lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, đã nhận thức được hành vi mà mình thực hiện là sai trái, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý quyết tâm thực hiện. Mặc khác, bị cáo biết mọi hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật xử lý nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, điều này thể hiện sự xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần thiết áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo với mức án nghiêm. Do đó, Hội đồng xét xử, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và có các tình tiết giảm nhẹ như trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 khi Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[5] Đối với người bán ma túy. Bị cáo không biết họ, tên và địa chỉ cụ thể nên chưa làm việc được nên Cơ quan điều tra không truy nguyên được người bán chất ma túy cho bị cáo, khi nào làm việc được sẽ xử lý sau.

[6] Đối với Lại Đức H. Quá trình kiểm tra không phát hiện có chất ma túy nên sau khi làm việc Cơ quan Công an đã cho H về địa phương. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh thì Hiếu không có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Khóm H, Phường H1, thành phố SĐ, tỉnh Đồng Tháp.

[7] Xử lý vật chứng:

Đối với 01 (một) gói niêm phong sau giám định có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long: Đây là chất ma túy Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về hình phạt bổ sung: Đây là loại tội phạm ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập, có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố V là có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Quốc Đ 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày 31/10/2022.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13 tháng 4 năm 2023 giữa Công an thành phố V với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V được xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong sau giám định có đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long 3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Quốc Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về