Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2022 tại phòng xét xử, Tòa án nhân dân Tuy Đức, tinh Đăk Nông mơ phiên toa xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2022/HSST ngày 13 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lầu A H, tên gọi khác: Lầu Chá M, sinh năm 1968 tại tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký hộ khẩu trường trú: Không xác định được; Chỗ ở trước khi phạm tội: Bản Đ, xã N, huyện T, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin Lành; quốc tịch: Việt Nam con ông Lầu Sáu C (đã chết) và con bà Giàng Thị D; bị cáo có vợ Gìang Thị C (chết), Ly Thị N (không đăng ký kết hôn) và có 05 người con, con lớn nhất sinh năm 1996, con nhỏ nhất con sinh năm 2001.

Nhân thân:

Ngày 30/01/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên tuyên phạt 38 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy tại bản án h ình sự sơ thẩm số 32/HSST, bị can chấp hành xong hình phạt ngày 15/6/2015.

Ngày 26/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu tuyên phạt 4 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại bản án sơ thẩm số 39/HSST, bị can chấp hành xong hình phạt ngày 21/10/2019 và được xóa án tích Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13-01-2022. Hiện đang tạm giam – Có mặt.

Người bào chữa:

Ông Phạm Quang L– Là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

Ông Y’L – Là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông – Có mặt.

Địa chỉ: Số 01 Chu Văn A, phường N, tp. G, tỉnh Đăk Nông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lầu A T; Địa chỉ: Bản Đ Kết, xã N, huyện T, tỉnh Đắk Nông – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lầu A H (tên gọi khác Lầu Chá M), sinh năm 1968 là đối tượng nghiện ma túy và không có nơi ở ổn định.

Vào khoảng 08 giờ ngày 11/01/2022 Lầu A H điều khiển xe mô tô (không có biển số, loại xe độ chế) đến huyện Đ, tỉnh Đắk Nông mu a của đối tượng tên X (chưa xác định nhân thân lai lịch) 01 gói nilon màu hồng, bên trong chứa ma túy với số tiền 1.000.000 đồng. Sau đó, H để ma túy vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô về nhà anh Lầu A T tại bản Đ, xã N, huyện T, tỉnh Đắk Nông để ở nhờ.

Khoảng 06 giờ ngày 13/01/2022, Lầu A H lấy gói ma túy ra vườn điều cạnh nhà để sử dụng, số còn lại H chia ra thành hai gói nhỏ bỏ vào hai túi quần mặc trên người. Khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô đi mua xăng, khi đi đến đoạn đường nhựa thuộc bản Đ, xã N, huyện T thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức bắt quả tang. Thu giữ ở túi quần bên trái và bên phải của Lầu A H 02 gói nilon màu hồng, bên trong chứa chất rắn màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel và 01 xe mô tô.

Tại bản kết luận giám định số 12/KLMT-PC09 ngày 19/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 02 gói nilon màu hồng được niêm phong trong bì thư gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 10,0649 gam; là Heroine (hoàn lại sau giám định 9,1887 gam).

Tại bản kết luận giám định số 62/KL-KTHS ngày 25/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: Dấu vây tay trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A1, A2) so sánh với dấu vân tay trên tài liệu so sánh (ký hiệu M) là dấu vân tay của cùng một người in ra. Quá đó xác định Lầu Chá M chính là Lầu A H.

Cáo trạng số: 36/CT-VKS ngày 13 tháng 7 năm 2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức quyết định truy tố bị cáo Lầu A H (Lầu Chá M) về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng và thừa nhận Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi xem xét các chứng cứ buộc tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lầu A H (Lầu Chá M) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lầu A H (Lầu Chá M) từ 06 năm đến 07 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày băt tạm giữ, tạm giam. Không đề nghị hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý và trả lại cho Lầu A H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, do khô ng liên quan đến việc phạm tội.

Tịch thu tiêu hủy 9,1887 gam Heroine (hoàn lại sau giám định); Tịch thu tiêu hủy 01 xe mô tô (không có biển số, loại xe độ chế), do không còn giá trị sử dụng.

Đối với đối tượng tên X (chưa xác định nhân thân lai lịch) là người đã bán ma túy cho Lầu A H, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức tiếp tục điều tra, xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật nên không đề cập.

Đối với hành vi của Lầu A T cho Lầu A H ở nhờ, nhưng T không biết Hòa tàng trữ ma túy nên không có căn cứ để xử lý Quan điểm của người bào chữa theo luận cứ: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, trong suốt quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo người dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn có điều kiện kinh tế dặc biệt khó khăn, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Do vậy, đề nghị Hồi đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí cho bị cáo.

Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã công bố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 13/01/2022 tại đoạn đường nhựa thuộc bản Đ, xã N, huyện T, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức phát hiện bắt quả tang Lầu A H (tên gọi khác Lầu Chá M) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhằm mục đích sử dụng. Theo kết luận giám định số 12/KLMT-PC09 ngày 19/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 02 gói nilon màu hồng được niêm phong trong bì th ư gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 10,0649 gam; là Heroine (hoàn lại sau giám định 9,1887 gam). Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

...

g) Heroine, ... có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

...” [3]. Xét hành vi do bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển được mọi hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo phải biết viêc̣ tàng trữ trai phep chất ma tuy vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn thực hiện hành vi cất giữ trái trái phép. Do vậy, cần xư phaṭ bi ̣cao mưc an nghiêm tương xưng vơi tính chất, mưc độ hanh vi cua bi ̣cao đa gây ra. Đồng thơi, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian thì mới bảo đảm được mục đích của hình phạt.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đẻ giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5]. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng [6]. Việc xử lý vật chứng:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel không liên quan đến việc phạm tội Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý và trả lại cho Lầu A H là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp cần được chấp nhận Đối với 9,1887 gam Heroine (hoàn lại sau giám định) là vật cấm tàng trữ; 01 xe mô tô (không có biển số,), do không còn giá trị sử dụng không có biển kiểm soát, loại xe độ chế không có đăng ký nên không được phép lưu hành theo quy định do không còn giá trị sử dụng. Do vậy, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nơi ở nhất định, sống lang thang nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8]. Đối với đối tượng tên X (chưa xác định nhân thân lai lịch) là người đã bán ma túy cho Lầu A H, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức tiếp tục điều tra, xác minh khi có căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật nên không đề cập.

[9]. Đối với hành vi của Lầu A T cho Lầu A H ở nhờ, nhưng T không biết Hòa tàng trữ ma túy nên không có căn cứ để xử lý.

[10]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức tại phiên tòa là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật cần chấp nhận.

[11]. Xét quan điểm của người bào chữa: Bị cáo không có nơi ở ổn định, bị cáo vào Bản Đ, xã N, huyện T, tỉnh Đắk Nông sống nhờ nhà Lầu A T và không có tài liệu chứng cứ để chứng minh bị cáo sinh sống trên địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, hộ nghèo. Do vậy, đề nghị của người bào chữa là không có căn cứ để chấp nhận.

[12]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[13]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lầu A H (tên gọi khác: Lầu Chá M) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lầu A H (tên gọi khác: Lầu Chá M) 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 13-01- 2022.

2. Việc xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã ra quyết định xử lý và trả lại cho Lầu A H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel.

Tịch thu tiêu hủy 9,1887 gam Heroine (hoàn lại sau giám định) và 01 xe mô tô không có biển kiểm soát, loại xe độ chế (Có đặc điểm như mô tả như trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lầu A H (tên gọi khác: Lầu Chá M) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần liên quan đ ến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về