Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẾN CẦU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Văn L (tên gọi khác: L), sinh năm 1986 tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: ấp B, xã An T, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Văn S (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); vợ: Phạm Thị N, sinh năm 1989 (đã ly hôn), con: có 01 người; tiền án: Bản án số 51/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu xét xử tuyên phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 23/7/2019, chấp hành xong ngày 07/5/2021 (chưa được xóa án tích); tiền sự: không có; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 11/02/2022 chuyển tạm giam từ ngày 17/02/2022 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 00 phút, ngày 10/02/2022, tại nhà của Lê Văn L thuộc ấp Bến, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Công an huyện Bến Cầu kết hợp Công an xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh bắt quả tang Lê Văn L đang cất giấu 03 bịch nylon trong suốt, hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng (nghi là chất ma túy). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu tiến hành tạm giữ người và vật chứng để làm rõ.

Qua điều tra, L khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, khoảng 20 giờ 00 phút ngày 03/02/2022 L đi nhờ xe của người đi đường đến khu vực Xóm Bắp thuộc thị trấn Gò Dầu, huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh gặp một người đàn ông tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 04 bịch ma túy đá với giá 600.000 đồng cất giấu vào người rồi đi nhờ xe của người đi đường về nhà tại ấp Bến, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, cất giấu số ma túy trên đến ngày 06/02/2022 L lấy 01 bịch ma túy ra sử dụng, số còn lại tiếp tục cất giấu. Đến 20 giờ 00 phút ngày 10/02/2022 thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra và bắt quả tang.

Kết luận giám định số 246/KL-KTHS ngày 14/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 03 (ba) bịch nylon trong suốt hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,5744 gam.

Ngày 10/02/2022, kiểm tra nồng độ chất ma túy phát hiện Lê Văn L dương tính với chất ma túy loại Methamphetamine.

Vật chứng phạm tội quả tang thu giữ: 03 (ba) bịch nylon trong suốt hàn kín, bên trong 03 (ba) bịch nylon này có chứa chất tinh thể rắn, màu trắng được niêm phong bằng bì thư có chữ ký của Lê Văn L.

Kê biên tài sản: Lê Văn L không có tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Đối với người đàn ông tên L bán ma túy cho Lê Văn L do không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn L, Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

Tại bản cáo trạng số:34CT-VKSBC ngày 21 tháng 4 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu đã truy tố Lê Văn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Lê Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố, bị cáo Lê Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lê Văn L từ 24 năm đến 30 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung; đồng thời áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng trong vụ án theo quy định pháp luật.

Bị cáo L thống nhất với luận tội của Kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo L thừa nhận hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bến Cầu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bến Cầu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và áp dụng điều luật: vào lúc 20 giờ 00 phút, ngày 10/02/2022 tại nhà của Lê Văn L thuộc ấp Bến, xã An Thạnh, huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh, Lê Văn L cất giấu 0,5744 gam chất ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang, tạm giữ người và vật chứng, tại kết luận giám định số 246/KL-KTHS ngày 14/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh xác định: Mẫu tinh thể rắn màu trắng bên trong 03 (ba) bịch nylon trong suốt hàn kín (kí hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng 0,5744 gam, sau giám định còn lại là 0,4379 gam. Do đó hành vi của Lê Văn L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[3] Về tính chất vụ án: vụ án mang tính chất nghiêm trọng, bị cáo L là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tàng trữ ma túy sử dụng là pháp luật nghiêm cấm nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu cá nhân bị cáo cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo L là rất nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự, an toàn xã hội. Việc tàng trữ và sử dụng ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho cho bản thân, gia đình và xã hội, người sử dụng ma túy sẽ bị nghiện, khi nghiện sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm, nên cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

+ Tình tiết tăng nặng: bị cáo L bị Tòa án nhân dân huyện Bến Cầu ra Bản án số 51/2019/HS-ST ngày 22/10/2019, xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong nhưng chưa được xóa án tích và tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

+ Tình tiết giảm nhẹ: bị cáo L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Áp dụng hình phạt: xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo L là có căn cứ. Bởi lẽ, bị cáo L là người nghiện ma túy, phạm tội nghiêm trọng, có một tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích nhưng tiếp tục phạm tội, do vậy cần áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục cho các bị cáo trở thành công dân biết chấp hành pháp luật.

Hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo L không có có tài sản nghĩ nên miễn hình phạt bổ sung.

[6] Đối với người đàn ông tên L bán ma túy cho Lê Văn L do không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bến Cầu chưa làm việc được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Văn L, Công an huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) gói niêm phong vụ số 246/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai, trợ lý Nguyễn Thị Thuỳ Linh và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh là ma tuý nên cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: bị cáo Lê Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Văn L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 02 năm 2022.

2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong vụ số 246/KL-KTHS có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Thị Tuyết Mai, trợ lý Nguyễn Thị Thuỳ Linh và dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 13 tháng 5 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bến Cầu, tỉnh Tây Ninh).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án, bị cáo Lê Văn L phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo Lê Văn L được quyền kháng cáo theo trình tự thủ tục phúc thẩm lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

621
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về