Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 35/2021/TLST-HS ngày 11/6/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 7/7/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình D. Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam. Sinh ngày 16 tháng 11 năm 1986. Quê quán: xã X, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn Hồ Hải, xã Kỳ Tiến, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: Lớp 6/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng. Con ông: Nguyễn Đình T; Sinh năm: 1957. Hiện làm lao động tự do và trú tại Phường X, thị xã A. Con bà: Võ Thị Th; (Đã chết). Anh, chị, em ruột: Có 04 người, bị cáo là con thứ tư. Vợ con: Chưa có. Tiền án: Có 01 tiền án: Bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản, tại Bản án số 281/2019/HSST, ngày 05/11/2019. Ngày 10/01/2021, chấp hành xong hình phạt trở về địa phương nhưng chưa được xóa án tích lại phạm tội mới. Tiền sự: Không. Quá trình nhân thân: Ngày 10/11/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 260/2008/HSST; đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 14/4/2021, đến ngày 16/4/2021 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay (Có mặt).

* Người chứng kiến: Ông: Lê Nhật Th ; Sinh năm 1986; trú tại: Tố Dân Phố L , Phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh(vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 22 giờ 10 phút, ngày 13/4/2021, tại Tổ dân phố L, phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh, Tổ tuần tra Công an phường K, thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh bắt quả tang Nguyễn Đình D đang cất giấu trong túi áo đang mặc một vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse, bên trong có một gói nilong màu trắng chứa chất tinh thể rắn màu trắng; một chiếc Coóng bằng thủy tinh và một chai nhựa, Nguyễn Đình D khai nhận: gói nilong màu trắng mà Nguyễn Đình D cất dấu trong vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse là ma túy đá, Nguyễn Đình D mua về để sử dụng. Tổ công tác Công an phường K đã lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã A, tỉnh Hà Tĩnh để điều tra xử lý.

Quá trình điều tra, Nguyễn Đình D khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 11/4/2021, Nguyễn Đình D đi ra xã Kỳ Phong, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh gặp hai người bạn nghiện tên T và Hùng (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) rủ T và Hùng sử dụng ma túy, đồng thời đưa cho T 350.000 đồng để đi mua ma túy đá về cùng sử dụng. Sau khi T mua một gói ma túy đá được gói trong giấy ni long màu trắng, Nguyễn Đình D, T và Hùng cùng đi đến ngôi nhà hoang ở xã X, huyện A, tỉnh Hà Tĩnh để cùng sử dụng. Khi đến ngôi nhà hoang, T đưa ra một chiếc Coóng bằng thủy tinh và một chai nhựa (dụng cụ để sử dụng ma túy đá), còn Nguyễn Đình D mở gói ma túy lấy một nửa để cùng sử dụng, còn một nửa gói lại. Sau khi sử dụng ma túy, Nguyễn Đình D bỏ gói ma túy đá còn lại vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse, rồi đi thuê nhà nghỉ (không rõ địa chỉ). Đến chiều ngày 13/4/2021, Nguyễn Đình D mang theo gói ma túy đá (trong vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse), cùng một chiếc Coóng bằng thủy tinh và một vỏ chai nhựa bỏ vào túi áo của mình, rồi đi bộ ra đón xe đi vào thành phố Đà Nẵng, Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Đình D đi đến Tổ dân phố L, phường K, thị xã A tỉnh Hà Tĩnh thì bị phát hiện thu giữ.

Cơ quan điều tra Công an thị xã A đã niêm phong một gói nilon chứa chất tinh thể rắn màu trắng thu giữ của Nguyễn Đình D để trưng cầu giám định. Tại bản kết luận giám định số 91/GĐMT-PC09 ngày 16/4/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Chất tinh thể rắn màu trắng chứa trong gói nilon thu giữ của Nguyễn Đình D gửi tới giám định là Methamphetamine, có khối lượng 0,8986 gam.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 36/CT - VKSTXKA ngày 10 tháng 6 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã A đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình D về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa;

Bị cáo Nguyễn Đình D đã đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và nhất trí với quyết định truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã A vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Đình D về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điểm s, Khoản 1, Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Đình D mức án từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng: Căn cứ Điểm a Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình; Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse, kích thước (12x06x02)cm bên trong chứa một gói nilon màu trắng chứa Methamphetamine có khối lượng 0,8986 gam (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0657 gam, còn lại 0,8329 gam, đã đóng gói niêm phong); 01 chiếc Coóng bằng thủy tinh và một vỏ chai nhựa.

Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, nên xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã A, Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, người chứng kiến không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo trình tự thủ tục luật định, đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai người chứng kiến, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản kiểm tra đồ vật, tài liệu và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có đủ cơ sở kết luận: Do nghiện ma túy nên tối ngày 11/4/2021, Nguyễn Đình D đi ra xã Kỳ Phong, huyện A Hà Tĩnh, cùng hai người bạn nghiện ma túy là T và Hùng (không rõ họ tên, địa chỉ) mua ma túy đá (Methamphetamine) về cùng sử dụng. Sau khi sử dụng, còn lại 0,8986 gam Methamphetamine, Nguyễn Đình D gói lại, bỏ vào trong vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse và cất dấu trong túi áo của mình rồi đi thuê phòng nghỉ. Chiều ngày 13/4/2021, Nguyễn Đình D lấy gói ma túy có khối lượng 0,8986 gam Methamphetamine bỏ vào trong túi áo của mình, rồi đi bộ ra đón xe để đi vào thành phố Đà Nẵng. Khoảng 22 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Đình D đi đến tổ dân phố L, phường K, thị xã A, Hà Tĩnh thì bị Công an phường K, thị xã A phát hiện và bắt giữ.

Với hành vi nêu trên Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, Hà Tĩnh đã truy tố và đề nghị Tòa án thị xã A đưa ra xét xử bị cáo Nguyễn Đình D về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không có gì oan sai.

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng, lỗi của bị cáo trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích tàng trữ ma túy của bị cáo là để sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn làm mất trật tự an toàn xã hội, gây ra nhiều loại hình tội phạm, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân. Nên cần phải xử lý nghiêm minh, nhằm răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

Trong vụ án này không có đồng phạm, chỉ một mình bị cáo Nguyễn Đình D thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo Nguyễn Đình D không vi phạm các tình tiết định khung khác nên chỉ bị xét xử ở Khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đình D phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại Điểm h, Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đình D được hưởng tình tiết giảm nhẹ; người phạm tội thành khẩn khai báo, theo quy định tại Điểm s Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. Sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thị Xã A là có căn cứ phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội; Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Đình D đã có 01 tiền án và 01 nhân thân về tội trộm cắp tài sản. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tĩnh bản thân mà vẫn tiếp tục có hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo coi thường kỷ cương pháp luật nên cần xử lý nghiêm minh và cần xử phạt bị cáo mức án trên mức khởi điểm mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là đủ nghiêm. Và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bản thân suy ngẫm về hành vi mà mình đã gây ra và cải tạo giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo đang là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người tên T và tên Hùng ở xã Kỳ Phong, huyện A, Hà Tĩnh đã mua và sử dụng ma túy cùng Nguyễn Đình D. Nhưng do Nguyễn Đình D không biết họ tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xác định, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6]. Về vật chứng: Quá trình điều tra CQCSĐT Công an Thị xã A thu giữ: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse, kích thước (12x06x02)cm bên trong chứa một gói nilon màu trắng chứa Methamphetamine có khối lượng 0,8986 gam (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0657 gam, còn lại 0,8329 gam, đã đóng gói niêm phong); Đây là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; còn lại 01 chiếc Coóng bằng thủy tinh và một vỏ chai nhựa đây là công cụ dụng cho việc sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Căn cứ Điểm a Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự để xử lý số vật chứng nói trên.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c, Khoản 1 Điều 249; Điều 38, Điểm s Khoản 1, Điều 51, Điểm h Khoản 1 Điều 52, Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ Điểm a Khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

1. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Đình D phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt: Nguyễn Đình D 22(Hai mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 14/04/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

* Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ni lon màu trắng; bên trong chứa Methamphetamine có khối lượng 0,8986 gam (đã lấy mẫu giám định không hoàn lại 0,0657 gam, còn lại 0,8329 gam, đã đóng gói niêm phong). 01 vỏ bao thuốc lá hiệu White Horse, kích thước (12x06x02)cm; 01 chiếc Coóng bằng thủy tinh dài 10cm và một vỏ chai nhựa màu trắng kích thước(08x04)cm có nắp màu vàng.

(Vật chứng có tình trạng và đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/6/2021).

4. Về án phí: Xử buộc bị cáo Nguyễn Đình D phải nộp 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về