Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 37/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 37/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Quốc C; Sinh ngày: 02/12/1974; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 73/5D đường VT, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Ngọc M (chết) và bà: Lâm Hồng N; Có vợ: Là bà Huỳnh Thị Kim C1 và con: Có 01 người con, sinh năm 2006; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 03/10/2022.

Nhân thân:

- Ngày 05/6/2013, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy» (Bản án số: 170/2013/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/02/2015 và đã thi hành xong án phí, nộp phạt ngày 05/7/2013 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 221/GCN của Trại giam Thạnh Hòa và Công văn trả lời xác minh số: 2710/CCTHADS ngày 28/7/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Ngày 01/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» (Bản án số: 300/2016/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/4/2019 và đã thi hành xong án phí ngày 16/01/2016 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 566/GCN của Trại giam Long Hòa và Công văn trả lời xác minh số: 2906/CCTHADS ngày 23/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh). (bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Trần Thị Cẩm P; Sinh năm: 1978; Thường trú: 73/5D đường VT, Phường H, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 190A đường MXT, Phường B, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

 2. Hộ kinh doanh xe máy MP; Địa chỉ: 542 đường MP, Phường I, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người đại diện Hộ kinh doanh: Bà Nguyễn Ngọc Minh Ph; Sinh năm: 1991; Thường trú: 1593/13B đường PTH, Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 542 đường MP, Phường I, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3. Hộ kinh doanh cửa hàng MA; Địa chỉ: 49A đường số F, cư xá BT, Phường H, Quận K, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người đại diện Hộ kinh doanh: Bà Nguyễn Thị Huyền A; Sinh năm: 1997; Trú tại: 1736 đường PTH, Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

4. Bà Đỗ Hoàng Bảo T; Sinh năm: 1991; Thường trú: 34A đường TL, phường PT, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 87 đường HVH, phường TQ, quận TP, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

5. Ông Trần Kim Đ; Sinh năm: 1980; Trú tại: Số A đường số 35, khu phố G, thị trấn CC, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

6. Ông Trang Thanh V; Sinh năm: 1987; Trú tại: 356B đường LMH, ấp XH, xã AH, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

7. Ông Triệu Hoàng P1; Sinh năm: 1994; Thường trú: Thôn SĐC, xã QT, huyện ĐL, tỉnh Đắk Nông; Chỗ ở: Số A đường số 35, khu phố G, thị trấn CC, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

- Người tiến hành tố tụng tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần:

Ông Phan Việt T - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 6. (có mặt)

- Người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại điểm cầu thành phần: Các ông Nguyễn Minh T, Bùi Văn Quang L; Nguyễn Triệu P; Phan Hồ Trọng L; Trần Hoàng Xuân T; Tôn Thành D - Là cán bộ, chiến sĩ Hỗ trợ tư pháp Công an Quận 6. (đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 03/10/2022, tổ công tác thuộc Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Trần Quốc C đang điều khiển xe gắn máy biển số 59Y3-440.72 chạy đến trước nhà số 256A đường NVL, Phường K, Quận F có biểu hiện nghi vấn, nên tiến hành kiểm tra và đã thu giữ của C 07 gói nylon (02 gói thu giữ trong túi áo khoác bên phải, 05 gói thu giữ trong túi quần phía trước bên phải) và bên trong 07 gói nylon này có chứa tinh thể không màu (C khai là ma túy đá). Sau đó, tổ công tác đã giao C cùng các vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tiến hành khám xét nơi ở của Trần Quốc C tại địa chỉ 73/5D đường VT, Phường H, Quận F, tổ công tác đã thu giữ của C 01 hộp giấy cacton màu vàng (kích thước 30x22x07cm), bên trong hộp giấy có: 01 quẹt gas màu đỏ, 01 cân điện tử có nắp đậy màu xám đen, 01 ống hút nhựa không màu được cắt xéo một đầu, 03 gói nylon có rãnh âm dương, 01 bình gas màu đen (có ghi chữ Bluesky), 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, 01 cây kẹp bằng kim loại có cán sơn màu xanh, 01 bình đèn cồn thủy tinh, 01 bình gas mini màu vàng xanh hiệu Peace Word, 01 đầu khò gas; 01 hộp kim loại (kích thước 18x10x05cm), bên trong hộp kim loại có 01 ống thủy tinh (có một đầu được uốn cong), 01 quẹt gas màu xanh;

01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh, 01 ống nhựa màu trắng.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Quốc C khai: Khoảng 18 giờ ngày 03/10/2022, C điều khiển xe gắn máy biển số 59Y3-440.72 đến khu vực đường BV (phía trước nhà số 133), phường PNL, Quận A mua từ một người phụ nữ tên «Dì Hai» (không rõ lai lịch) 07 gói ma túy đá giá 1.500.000 Đ. Sau khi cất 02 gói ma túy vào trong túi áo khoác bên phải, cất 05 gói ma túy vào trong túi quần phía trước bên phải, C điều khiển xe chạy về đến trước nhà số 256A đường NVL, Phường K, Quận F thì bị kiểm tra bắt giữ như nêu trên. Ngoài ra, C khai các dụng cụ thu giữ tại nhà số 73/5D đường VT, Phường H, Quận F là của C, trong đó có 01 chai nhựa gắn ống thủy tinh, 01 ống nhựa màu trắng, 01 ống thủy tinh (có một đầu được uốn cong), 01 ống hút nhựa không màu được cắt xéo một đầu là bộ dụng cụ C dùng để sử dụng ma túy. Còn các vật dụng khác, C chỉ dùng trong sinh hoạt thường ngày, không dùng vào việc sử dụng ma túy hay phân chia ma túy.

Theo Biên bản xét nghiệm chất ma túy ngày 04 tháng 10 năm 2022 của Trạm y tế Phường 11, Quận 6, Trần Quốc C dương tính với ma túy (chất dạng Amphetamine).

Tại Kết luận giám định số: 5661/KL-KTHS ngày 11 tháng 10 năm 2022, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: 01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Trọng Tân (Điều tra viên), Nguyễn Văn Ng (người chứng kiến), Trần Quốc C và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6, bên trong có:

- Tinh thể không màu trong 02 gói nylon cần giám định (m1) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,3670g (hai phẩy ba sáu bảy không gam), loại Methamphetamine.

- Tinh thể không màu trong 05 gói nylon (để trong 01 gói nylon) cần giám định (m2) đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 2,5020g (hai phẩy năm không hai không gam), loại Methamphetamine.

Ngày 05 tháng 10 năm 2022, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 ra quyết định khởi tố vụ án hình sự (Quyết định số: 121/QĐ-ĐCSMT); khởi tố bị can đối với Trần Quốc C về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» (Quyết định số:

140/QĐ-ĐCSMT).

Đối với người phụ nữ tên «Dì Hai» bán ma túy cho Trần Quốc C ở khu vực đường BV (phía trước nhà số 133), phường PNL, Quận A, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 39/CT-VKS-Q6 ngày 15 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Quốc C về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Quốc C khai nhận chính bị cáo, đã thực hiện hành vi cất giữ 07 gói ma túy đá để sử dụng và bị Công an phát hiện bắt quả tang vào tối ngày 03/10/2022 tại trước nhà số 256A đường NVL, Phường K, Quận F như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Quốc C như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Trần Quốc C từ 03 năm đến 04 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 5661(1164/22), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên. Bên trong chứa: tinh thể màu trắng (m1) có khối lượng 2,2946 gam, tinh thể màu trắng (m2) có khối lượng 2,3995 gam (mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định); 01 áo khoác màu xanh; 01 hộp giấy cacton màu vàng, kích thước 30x22x07cm; 01 quẹt gas màu đỏ; 01 cân điện tử có nắp đậy màu xám đen; 01 ống hút nhựa không màu được cắt xéo một đầu; 03 gói nylon có rãnh âm dương (bên trong không có chứa gì); 01 bình gas màu đen hiệu Bluesky; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 cây kẹp bằng kim loại có cán sơn màu xanh; 01 bình đèn cồn thủy tinh; 01 bình gas mini màu vàng xanh hiệu Peace Word; 01 đầu khò gas; 01 hộp kim loại, kích thước 18x10x05cm; 01 ống thủy tinh (một đầu được uốn cong); 01 quẹt gas màu xanh;

01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh, 01 ống nhựa màu trắng.

Trả lại bị cáo Trần Quốc C 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Redmi, Imei 1: 860295041535068, Imei 2: 860295042675061 (bên trong có 01 sim điện thoại số 0909418800); 01 chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, Imei 1: 355849094077998, Imei 2: 355849099078009 (bên trong có 01 sim điện thoại số 0877770878) và số tiền 300.000 Đ.

Trả lại bà Trần Thị Cẩm P 01 chiếc xe gắn máy biển số 59Y3-440.72, số khung: MH1KF4118KK655580, số máy: KF41E1656256 (loại xe hai bánh từ 50- 175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Vario 150, sơn màu Nâu Đen, dung tích 149).

Lời nói sau cùng, bị cáo Trần Quốc C nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Trần Quốc C tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định số: 5661/KL-KTHS ngày 11/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh; lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ, lời khai khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Quốc C đã phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 2015).

Bị cáo Trần Quốc C đã cất giữ chất ma túy ở thể rắn và thời điểm bắt quả tang (vào lúc 19 giờ ngày 03/10/2022 tại trước nhà số 256A đường NVL, Phường F, Quận F) đã thu giữ của bị cáo 07 gói nylon (02 gói thu giữ trong túi áo khoác bên phải, 05 gói thu giữ trong túi quần phía trước bên phải), bên trong 07 gói nylon này có 4,8690 gam ma túy, loại Methamphetamine (bị cáo khai số ma túy này là của bị cáo mua từ một người phụ nữ tên «Dì Hai» ở khu vực đường BV, phường PNL, Quận A và cất giữ để dành sử dụng, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác). Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ độc quyền trong việc quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an xã hội. Hành vi này đủ yếu tố cấu thành tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» thuộc trường hợp «Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam» theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên, là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Bị cáo Trần Quốc C là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi cất giữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Ngoài ra, bị cáo Trần Quốc C còn có nhân thân xấu, đó là ngày 05/6/2013, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân xử phạt 03 năm tù về tội «Mua bán trái phép chất ma túy»; ngày 01/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Mặc dù lần ở phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là không tốt.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Trần Quốc C là nghiêm trọng. Mặt khác, ma túy nói chung và các chất ma túy ở thể rắn như Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng, thể hiện sự nghiêm minh của phap luật, nhằm đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung, góp phần vào công tac đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay, nhất là các tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, xét bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự đối với bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Những nhận định trên cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, bị cáo Trần Quốc C còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Việc xử lý vật chứng:

[7.1] Đối với 01 gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 5661(1164/22), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang và cán bộ điều tra Phạm Tiến Nguyên. Bên trong chứa: tinh thể màu trắng (m1) có khối lượng 2,2946 gam, tinh thể màu trắng (m2) có khối lượng 2,3995 gam (mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định); 01 áo khoác màu xanh; 01 hộp giấy cacton màu vàng, kích thước 30x22x07cm; 01 quẹt gas màu đỏ; 01 cân điện tử có nắp đậy màu xám đen; 01 ống hút nhựa không màu được cắt xéo một đầu; 03 gói nylon có rãnh âm dương (bên trong không có chứa gì); 01 bình gas màu đen hiệu Bluesky; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 cây kẹp bằng kim loại có cán sơn màu xanh; 01 bình đèn cồn thủy tinh; 01 bình gas mini màu vàng xanh hiệu Peace Word; 01 đầu khò gas; 01 hộp kim loại, kích thước 18x10x05cm; 01 ống thủy tinh (một đầu được uốn cong); 01 quẹt gas màu xanh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 chai nhựa có gắn ống thủy tinh, 01 ống nhựa màu trắng, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7.2] Đối với 01 chiếc điện thoại di động màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Redmi, Imei 1: 860295041535068, Imei 2: 860295042675061 (bên trong có 01 sim điện thoại số 0909418800); 01 chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, Imei 1: 355849094077998, Imei 2: 355849099078009 (bên trong có 01 sim điện thoại số 0877770878) và số tiền 300.000 Đ thu giữ của bị cáo Trần Quốc C. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định do bị cáo phạm tội mà có hay bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7.3] Đối với chiếc xe gắn máy biển số 59Y3-440.72, theo Kết luận giám định số: 21242/KL-KTHS ngày 16/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL120) và Phiếu trả lời xác minh ngày 07/10/2022 của Công an Quận 6 (BL124) thì chiếc xe này có số khung: MH1KF4118KK655580, số máy: KF41E1656256 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Vario 150, sơn màu Nâu Đen, dung tích 149), đứng tên chủ xe là ông Trang Thanh V. Quá trình điều tra, xét thấy có đủ căn cứ xác định bà Trần Thị Cẩm P là người quản lý hợp pháp của chiếc xe (mặc dù bà P chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu) và bà P không biết anh của bà là bị cáo Trần Quốc C đã sử dụng chiếc xe làm phương tiện đi mua ma túy, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát là trả chiếc xe lại cho bà P theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 17/PNK ngày 20 tháng 02 năm 2023 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 36/QĐ-VKS ngày 15 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6; Giấy nộp tiền ngày 25 tháng 10 năm 2022 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn - Chi nhánh Bắc Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09 tháng 6 năm 2023 giữa Công an Quận 6 và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6) [8] Đối với người phụ nữ tên «Dì Hai» mà bị cáo Trần Quốc C khai bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo khai không rõ nhân thân lai lịch, nên không có cơ sở điều tra làm rõ, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[9] Đối với hành vi cất giữ các phương tiện, dụng cụ (01 chai nhựa gắn ống thủy tinh, 01 ống nhựa màu trắng, 01 ống thủy tinh, có một đầu được uốn cong, 01 ống hút nhựa) của bị cáo Trần Quốc C. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát xác định không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo về hành vi tàng trữ dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy. Còn các dụng cụ khác, quá trình điều tra không chứng minh được bị cáo cất giữ để làm dụng cụ sử dụng ma túy, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[10] Bị cáo Trần Quốc C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Trần Quốc C phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Trần Quốc C 04 (bốn) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2022.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) gói ma túy bên ngoài có ghi vụ số: 5661(1164/22), có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Xuân S và cán bộ điều tra Phạm Tiến N. Bên trong chứa: tinh thể màu trắng (m1) có khối lượng 2,2946 (hai phẩy hai chín bốn sáu) gam, tinh thể màu trắng (m2) có khối lượng 2,3995 (hai phẩy ba chín chín năm) gam; 01 (một) áo khoác màu xanh; 01 (một) hộp giấy cacton màu vàng, kích thước 30x22x07cm; 01 (một) quẹt gas màu đỏ; 01 (một) cân điện tử có nắp đậy màu xám đen; 01 (một) ống hút nhựa không màu được cắt xéo một đầu; 03 (ba) gói nylon có rãnh âm dương (bên trong không có chứa gì); 01 (một) bình gas màu đen hiệu Bluesky; 01 (một) cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 (một) cây kẹp bằng kim loại có cán sơn màu xanh;

01 (một) bình đèn cồn thủy tinh; 01 (một) bình gas mini màu vàng xanh hiệu Peace Word; 01 (một) đầu khò gas; 01 (một) hộp kim loại, kích thước 18x10x05cm; 01 (một) ống thủy tinh (một đầu được uốn cong); 01 (một) quẹt gas màu xanh; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm: 01 (một) chai nhựa có gắn ống thủy tinh, 01 (một) ống nhựa màu trắng.

- Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại bị cáo Trần Quốc C 01 (một) chiếc điện thoại di động màu xanh, bên ngoài có ghi chữ Redmi, số Imei 1: 860295041535068, số Imei 2:

860295042675061, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 0909418800; 01 (một) chiếc điện thoại di động màu đen, bên ngoài có ghi chữ Nokia, số Imei 1:

355849094077998, số Imei 2: 355849099078009, bên trong có 01 (một) sim điện thoại số 0877770878 và 300.000 (ba trăm ngàn) Đ.

Trả lại bà Trần Thị Cẩm P 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 59Y3-440.72, số khung: MH1KF4118KK655580, số máy: KF41E1656256 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Honda, số loại Vario 150, sơn màu Nâu Đen, dung tích 149).

(theo Giấy nộp tiền ngày 25 tháng 10 năm 2022 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn - Chi nhánh Bắc Thành phố Hồ Chí Minh; Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 09 tháng 6 năm 2023 giữa Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) - Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Trần Quốc C phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) Đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Trần Quốc C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 37/2023/HS-ST

Số hiệu:37/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về