Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2024/HS-ST NGÀY 04/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 04 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà và điểm cầu thành phần tại Trại tạm giam Công an tỉnh H, Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử trực tuyến, công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2024/TLST-HS, ngày 08/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2024/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Phạm Văn K, sinh năm 1992 tại xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; Nơi đăng ký thường trú: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K1 và bà Lê Thị T; có vợ là Đặng Thị Kim D và có 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: 01 Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 25 ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà áp dụng 20 tháng cai nghiện bắt buộc đối với Phạm Văn K. K chấp hành xong ngày 18/11/2022.

Nhân thân:

- Bản án số 17 ngày 28/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà xử phạt Phạm Văn K 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 25/02/2018; nộp án phí ngày 26/4/2018; Bị hại xác định cho bị cáo số tiền 7.920.000đ mà bản án buộc bị cáo phải bồi thường; đã xóa án tích.

- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 90 ngày 24/3/2017 của Công an huyện T xử phạt Phạm Văn K 1.000.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/01/2024, đến ngày 31/01/2024 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh H; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Phạm Văn Đ; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Xuân C; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn K là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 29/01/2024, K đi bộ từ nhà đến khu vực gần Trung tâm y tế huyện T, tỉnh Hải Dương để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, K gặp một người thanh niên không quen biết và hỏi mua 200.000đ ma túy. Người đàn ông đưa cho K 01 vỏ bao thuốc lá T, bên trong có 01 gói giấy bạc kích thước (2x3)cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng, K cất giấu gói ma túy vào túi áo khoác đang mặc và đi tìm nơi để sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trong túi áo khoác bên phải K đang mặc 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long, bên trong có 01 gói giấy bạc kích thước (2x3)cm, bên trong có chứa 0,251g là ma túy, loại Heroine (theo Kết luận giám định số 148/KL-KTHS).

Bản Cáo trạng số 15/CT-VKSHD-TH ngày 06/3/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Văn Khánh thành k khai nhận như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn K từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 29/01/2024. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng, về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: 0,211g ma túy loại Heroine, 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long và 01 vỏ phong bì niêm phong gửi đến giám định đựng trong bì thư niêm phong vật chứng số 148 của Phòng K2, Công an tỉnh H. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 13 giờ ngày 29/01/2024, tại đoạn đường 390 khu vực cổng Trung tâm y tế huyện T thuộc khu D, thị trấn T, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn K có hành vi cất giấu trái phép 0,251g Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất an ninh trật tự và ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xem xét về nhân thân của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu: Không có tiền án; có 01 tiền sự về hành vi bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính số 25 ngày 26/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà.

Tại Bản án số 17 ngày 28/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà xử phạt Phạm Văn K 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 25/02/2018; nộp án phí ngày 26/4/2018. Quá trình điều tra xác định trước thời điểm thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án này, bị hại đã cho bị cáo số tiền 7.920.000đ mà Bản án số 17 ngày 28/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà đã buộc bị cáo phải bồi thường. Tính đến thời điểm phạm tội ngày 29/01/2024, bị cáo đã được xóa án tích theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 70 Bộ luật hình sự. Do vậy, không tính Bản án số 17 ngày 28/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Hà là tiền án đối với bị cáo K mà chỉ tính là nhân thân đối với bị cáo.

Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 90 ngày 24/3/2017 của Công an huyện T xử phạt Phạm Văn K 1.000.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 05/5/2017, Công an huyện T xác định bị cáo không có khả năng nộp phạt và kết thúc hồ sơ. Đến nay bị cáo cũng chưa nộp phạt. Tuy nhiên, không có tài liệu, chứng cứ thể hiện bị cáo K có hành vi trì hoãn, trốn tránh thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính trên. Đến thời điểm phạm tội, đã hết thời hiệu thi hành quyết định này và K được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 6, khoản 1 Điều 7, Điều 74 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020. Do vậy, chỉ xác định quyết định số 90 ngày 24/3/2017 của Công an huyện T là nhân thân mà không tính là tiền sự đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản, do vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: 0,211g ma túy loại Heroine hoàn lại sau giám định là chất cấm tàng trữ, lưu hành; 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ bao thuốc lá nhăn hiệu Thăng Long và 01 vỏ phong bì niêm phong gửi đến giám định không có giá trị sử dụng, do vậy, cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Đối với người bán ma túy cho K, quá trình điều tra không xác định được cụ thể họ tên, địa chỉ của người này nên không có căn cứ xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điềm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 17 (mười bảy) tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 29/01/2024.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

3. Về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm: 0,211g ma túy loại Heroine, 01 mảnh giấy bạc, 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long và 01 vỏ phong bì niêm phong gửi đến giám định đựng trong bì thư niêm phong vật chứng số 148 của Phòng K2, Công an tỉnh H.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/3/2024 giữa Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Hà).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Văn K phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2024/HS-ST

Số hiệu:36/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về