Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 09/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 11 năm 2021, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/HS-ST, ngày 13 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2021/QĐXXST– HS, ngày 26 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Kim T, sinh năm 1969, tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Tổ dân phố …., phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không có nghề nghiệp ổn định; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim T (đã chết) và bà Nguyễn Thị B (đã chết); có vợ là Lê Thị V, sinh năm 1975; hiện vợ bị cáo đang sinh sống tại: Tổ dân phố ….., phường A, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; có 03 người con, con lớn sinh năm 1993, con nhỏ sinh năm 1998;

Tiền án: 02 tiền án, ngày 23/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 24/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích; Ngày 28/01/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 20/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện E xử phạt 02 năm từ nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, đã chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk từ ngày 22/6/2021, có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1988 – vắng mặt. Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Kim T là người nghiện ma túy và có 02 tiền án, để thỏa mãn cơn nghiện ma túy nên vào sáng ngày 22/6/2021, Toàn đi bộ đến khu vực xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Khi T đang đi trên đường liên thôn gần đường Hồ Chí Minh (Toàn không biết thuộc thôn nào của xã C) thì gặp một người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch ở đâu và T đã mua ma túy của người đàn ông này với số tiền 200.000 đồng, người đàn ông này đưa cho T 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng. Sau khi mua được ma túy, T cầm đoạn ống nhựa đựng ma túy trên tay phải rồi đi về. Khi T đi đến khu vực thuộc thôn K, xã C, huyện K thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K kiểm tra, phát hiện trên tay phải của T cầm 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng, sau đó Cơ quan Cảnh sát điều tra lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ số ma túy nói trên.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 02 đầu bên trong chứa chất bột màu trắng.

Tại kết luận giám định số: 700/GĐMT-PC09 ngày 29/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Các cục chất bột màu trắng đựng trong 01 ống nhựa màu trắng được niêm phong gửi giám định là Ma túy, có khối lượng 0,0783gam, loại Heroine. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 0,0546 gam.

Tại bản Cáo trạng số 38/CT-VKS, ngày 13 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk đã truy tố bị cáo Nguyễn Kim T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Búk sau khi phân tích, chứng minh các chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kim Toàn từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/6/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy 0,0546 gam ma túy, loại Heroine là tang vật vụ án còn lại sau giám định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Nguyễn Kim T, do không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Kim T khai nhận: Bị cáo là người nghiện ma túy (Heroine), vào sáng ngày 22/6/2021, bị cáo đã đi tìm và mua của một người đàn ông không quen biết tại xã C, huyện K 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu bên trong có ma túy (Heroine) trị giá 200.000 đồng, mục đích đem về để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Búk phát hiện bắt giữ cùng tang vật là 01 đoạn ống nhựa được hàn kín 02 đầu bên trong có chứa ma túy có khối lượng là 0,0783 gam, loại Heroine.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội được quy định tại các điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;……”.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, có khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống. Bị cáo biết được rằng chất ma túy là chất gây nghiện, dược liệu hướng thần nằm trong danh mục quản lý độc quyền của Nhà nước. Nhà nước nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán….. trái phép chất ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 02 tiền án, ngày 23/9/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 24/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích; Ngày 28/01/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 05/02/2021 chấp hành xong hình phạt tù chưa được xóa án tích; Ngày 20/9/2010 bị Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 02 năm từ nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng”, đã chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích. Mặc dù bị cáo biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm, bị cáo đã bị xử phạt tù về hành vi mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy. Lẽ ra sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo phải lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân nhưng vì muốn có ma túy để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hành vi phạm tội của bị cáo cũng là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác như cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản....

Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần cáp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,0546 gam ma túy, loại Heroine là tang vật vụ án còn lại sau giám định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông búk và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk).

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Kim T 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 0,0546 gam ma túy, loại Heroine là tang vật vụ án còn lại sau giám định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/10/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông búk và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bò cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2021/HS-ST

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:09/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về