Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 360/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 360/2021/HSST NGÀY 18/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 8 năm 2021, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố TN mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 343/2021/HSST ngày 01 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 353/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn N, sinh ngày 27/3/1993 HKTT: Xóm T, xã C, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không. Con ông: Phạm Văn N, sinh năm 1962. Con bà: Tô Thị S, sinh năm 1965. Gia đình có 03 chị, em, bị cáo là con thứ ba. Có vợ: Đinh Thị T, sinh năm 1995 (đã ly hôn). Có 01 con sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/4/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Ngô Đại C (tên khác: Ngô Thế C), sinh năm 1975, có đơn xin xét xử vắng mặt.

Trú tại: Xóm N, xã T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

*Người chứng kiến:

Anh Đỗ Xuân H, sinh năm 1982, vắng mặt. Trú tại: Xóm G, xã C, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 11 giờ 40 phút ngày 07/4/2021 tổ công tác của Công an xã C, thành phố TN làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát trên địa bàn của xã. Khi đến khu vực xóm A thì phát hiện 01 nam thanh niên điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì người nam thanh niên này khai là Phạm Văn N. Quá trình kiểm tra thì phát hiện trong cốp xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 có 01 gói nhỏ nilon màu trắng, bên trong có chứa tinh thể màu trắng. N khai nhận đó là ma túy đá do N mua về mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an xã C, thành phố TN đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ của N 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Star biển kiểm soát 20F8 - 9283.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành cân xác định khối lượng chất tinh thể màu trắng thu giữ của N có khối lượng là: 0,241 gam. Tiến hành lấy 0,091 gam chất tinh thể màu trắng niêm phong vào bì ký hiệu N gửi giám định. Còn lại 0,15 gam chất tỉnh thể màu trắng niêm phong vào trong bì ký hiệu N1 để lưu kho.

Tại kết luận giám định số 725/KL-KTHS ngày 16/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu N gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,241 gam.

Tại Cơ quan điều tra Phạm Văn N khai nhận: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 07/4/2021, N một mình điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 đi từ nhà đến khu vực đầu cầu C thuộc phường T, thành phố TN mục đích để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tai đây, N gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói ma túy đá được gói bằng nilon màu trắng với số tiền 200.000 đồng. Sau đó Ngân cất gói ma túy vừa mua được vào trong cốp xe mô tô biển kiếm soát 20F8 - 9283 rồi điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đang đi đến khu vực xóm A, xã C, thành phố TN thì bị tổ công tác của Công an xã C, thành phố TN phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Lời khai nhận của Phạm Văn N phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Star biển kiểm soát 20F8 - 9283. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 do ông Ngô Đại C (Tên gọi khác là Ngô Thế C), sinh năm 1975, trú tại: Xóm N, xã T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đứng tên đăng ký đối với chiếc xe mô tô này. Khoảng đầu năm 2021 ông C đã bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 cho một người không nhớ rõ tên tuổi, địa chỉ ở đâu. Phạm Văn N khai nhận, N đã mua chiếc xe trên của một người không quen biết, khi mua không viết giấy mua bán xe.

- 01 bì niêm phong kí hiệu N bên trong chứa vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định.

- 01 bì niêm phong kí hiệu N1 bên trong chứa ma túy là mẫu lưu kho.

Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 351/CT-VKSTPTN ngày 30/6/2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xác định Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Phạm Văn N từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: Xử lý theo quy định tại Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định, 01 bì niêm phong kí hiệu N1 bên trong chứa ma túy là mẫu lưu kho. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Star biển kiểm soát 20F8 – 9283.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì. Lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cở sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 11 giờ 40 phút ngày 07/4/2021 tại khu vực xóm A, xã C, thành phố TN, Phạm Văn N đang có hành vi tàng trữ 0,241 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an xã C, thành phố TN phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng theo quy định.

Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo Phạm Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà ma túy còn là hiểm họa cho xã hội, phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội. Hành vi của bị cáo phải xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS, Về hình phạt bổ sung, qua xác minh tại địa phương và tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản có giá trị, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4]. Về vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định và 01 bì niêm phong kí hiệu N1 bên trong chứa ma túy là mẫu lưu kho không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM Star biển kiểm soát 20F8 – 9283 do ông Ngô Thế C, sinh năm 1975, trú tại: Xóm N, xã T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đứng tên đối với chiếc xe mô tô này. Khoảng đầu năm 2021 ông C đã bán chiếc xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283 cho một người không nhớ rõ tên tuổi, địa chỉ ở đâu, anh C có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa và không có yêu cầu gì khác. Tại phiên tòa bị cáo xác định chiếc xe thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo đã mua chiếc xe trên của một người không quen biết, khi mua không viết giấy mua bán xe. Chiếc xe trên bị cáo đã sử dụng là phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước là phù hợp quy định pháp luật.

[5]. Về các vấn đề khác:

Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm; Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với số ma túy đã thu giữ, Phạm Văn N khai mua của 01 người nam giới không quen biết ở khu vực cầu C thuộc địa phận phường T, thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Đối với ông Ngô Đại C (Tên gọi khác: Ngô Thế C) là người đứng tên trong giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 20F8 - 9283. Tuy nhiên ông Ngô Đại C khai nhận đã bán chiếc xe mô tô trên cho một người không nhớ rõ tên tuổi, địa chỉ ở đâu, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không xem xét xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- Về hình phạt: Xử phạt Phạm Văn N 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/4/2021.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 329 của BLTTHS: Tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

[2]. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong theo đúng quy định, ký hiệu N bên trong chứa vỏ bao gói mẫu N, hoàn trả sau giám định, mặt sau có chữ ký của Nguyễn Thành T, Phạm Anh T và 02 dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên. 01 (một) bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu N1 bên trong chứa 0,15 gam ma túy (chất tinh thể màu trắng) là mẫu vật lưu kho. Mặt sau có 03 (ba) hình dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an thành phố TN và chữ ký, họ tên của Nguyễn Ngọc V, Đặng B, Phạm Văn N, Đỗ Xuân H, Bùi Hữu N, Nguyễn Quang K.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô BKS: 20F8 - 9283, nhãn hiệu MOTOSTAR; Màu sơn: Xanh; Loại xe: Hai bánh từ 50-175cm3; Số loại: VR3; số khung D4V - 503353, số máy GU - 503353; Dung tích xi lanh: 101, xe cũ, đã qua sử dụng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 475 ngày 25/6/2021 giữa Công an thành phố TN và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN).

[3]. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo Phạm Văn N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

[4]. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (anh C) vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 360/2021/HSST

Số hiệu:360/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về