Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KINH MÔN, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2024/HS-ST NGÀY 15/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 15/4/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K, tỉnh D xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2024/TLST-HS ngày 27 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2024/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 4 năm 2024, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn M, sinh năm 1995 tại: Thị xã K, tỉnh D; nơi ĐKHKTT và nơi ở hiện nay: Khu dân cư (KDC) D, phường D, thị xã K, tỉnh D; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, con bà Nguyễn Thị Đ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/01/2024 đến ngày 05/02/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh D đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Ông Dương Văn T - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/01/2024, Nguyễn Văn M đi nhờ xe của người đi đường đến khu vực chân cầu Đ thuộc phường M, thị xã K để tìm mua ma tuý tổng hợp (gọi là ma tuý “đá”) với mục đích mua về sử dụng cho bản thân. Tại đây, M gặp một người đàn ông không quen biết và được giới thiệu tên là V. M hỏi và mua được của người này 01 túi ma tuý có đặc điểm là: Túi nilon màu trắng, miệng túi có viền khoá màu xanh, bên trong có chất tinh thể màu trắng với số tiền 500.000 đồng. Sau đó M đi nhờ xe máy của người đi đường về nhà ở khu dân cư N, phường D, thị xã K. Khi về đến địa phận phường D thì M xuống xe đi bộ. Đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày, khi M đang đi bộ trên đường thuộc khu dân cư N, phường D, thị xã K thì bị Tổ công tác thuộc Công an phường D phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của M 01 túi nilon màu trắng, miệng túi có viền khoá màu xanh, bên trong có chất tinh thể màu trắng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã K để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 30/01/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của M, kết quả: Không thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.

Tại Kết luận giám định số 149/KL-KTHS ngày 01/02/2024, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng trong túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, ghi thu của Nguyễn Văn M gửi đến giám định khối lượng 0,217g là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 26 tháng 3 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thị xã K, tỉnh D đã truy tố Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Văn M thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã K đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã K thực hành quyền công tố, trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M từ 13 đến 16 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 30/01/2024. Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về việc xử lý vật chứng và án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã K, tỉnh D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã K, tỉnh D, Kiểm sát viên thu thập, những người tham gia tố tụng cung cấp; hành vi, quyết định tố tụng do Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có khiếu nại hoặc tố cáo. Do đó xác định những chứng cứ, tài liệu đã thu thập; các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của Nguyễn Văn M tại phiên toà phù hợp với lời khai, bản cung của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án đã thu giữ được, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 10 phút ngày 29/01/2024, tại khu dân cư N, phường D, thị xã K, tỉnh D, Nguyễn Văn M có hành vi tàng trữ trái phép 0,217g ma túy loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường D phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bởi lẽ:

[3] Hành vi của Nguyễn Văn M là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý - Một khách thể mà Bộ luật Hình sự đã quy định và bảo vệ. Với mục đích nhằm thoả mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma tuý của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật của Nhà nước, lén lút cất giữ trái phép chất ma túy với số lượng là 0,217g ma túy loại Methamphetamine để sử dụng làm mất trật tự trị an trên địa bàn, gây dư luận xấu trong nhân dân. Nhà nước ta đã có chế độ quản lý ngặt nghèo đối với ma tuý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng… trái phép chất ma túy. Nhà nước đã tuyên truyền rộng rãi dưới nhiều hình thức về hiểm hoạ của ma tuý và pháp luật của Nhà nước đối với ma tuý. Bản thân bị cáo đã hiểu rõ tác hại của ma tuý đối với sức khoẻ, tính mạng của con người. Nhưng do ham chơi, không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, bị cáo đã sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Viện kiểm sát nhân dân thị xã K đã truy tố Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với hành vi của mình, bị cáo phải chịu một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, để hình phạt đó không chỉ là sự trừng trị của pháp luật đối với người phạm tội mà còn là bài học để răn đe, giáo dục chung trong cộng đồng.

[4] Xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự gì.

[5] Xét cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi, hoàn cảnh kinh tế của bị cáo thấy không cần phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của bị cáo 0,217g ma túy loại Methamphetamine. Sau khi giám định, Cơ quan giám định hoàn lại 0,175g ma túy loại Methamphetamine, đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy.

Ngoài ra, đối với 01 mảnh giấy trắng gói ma túy, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật xét không có giá trị cần tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Trong vụ án này, Nguyễn Văn M khai mua ma túy của người đàn ông không quen biết tên V tại khu vực cầu Đ thuộc địa phận phường M, thị xã K, tỉnh D. Qua điều tra chưa xác định được tên, tuổi và địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã K không xử lý đối với trường hợp trên.

[9] Về án phí: Bị cáo M bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 30/01/2024.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu cho tiêu hủy 0,175g ma túy loại Methamphetamine, 01 mảnh giấy trắng gói ma túy, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật được đựng trong 01 phong bì niêm phong số 149/KLGĐ-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh D (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận tài sản, vật chứng ngày 11/4/2024 của Công an thị xã K và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã K).

Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

 

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

3
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2024/HS-ST

Số hiệu:35/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kinh Môn - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về