Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 35/2023/HS-ST NGÀY 07/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 6 năm 2023, tại Nhà văn hóa xã T, huyện Y, tỉnh V xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2023/TLST - HS ngày 26 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2023/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1966; sinh trú quán: Thôn Đ 1, xã N, huyện Y, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 04/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Ngọc H (đã chết) và bà Nguyễn Thị E; có vợ là Nguyễn Thị H và có 03 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1994; tiền sự: Không.

Tiền án: Có 01 tiền án.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 29/2020/HSST ngày 30/6/2020, Nguyễn Ngọc T bị Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh V xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 29/4/2022, T đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng đến nay chưa được xóa án tích.

Về nhân thân:

+ Tại Quyết định số: 1497/QĐ - CT ngày 11/9/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Y quyết định đưa Nguyễn Ngọc T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 24 tháng. Ngày 12/9/2014, T đã chấp hành xong.

+ Tại Quyết định số: 05/QĐ - TA ngày 04/5/2017, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với T đưa T vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 18 tháng. Ngày 16/02/2019, T đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/01/2023 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Yên Lạc, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc T là đối tượng nghiện chất ma túy từ năm 2010 đến nay chưa từ bỏ được. Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 13/01/2023, tại đoạn đường liên thôn thuộc địa phận thôn Đ 1, xã N, huyện Y, T đang trên đường đi mua ma túy về nhà để sử dụng thì bị tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật Cơ quan Công an đã thu giữ gồm: Thu tại lòng bàn tay trái của T 01 gói nhỏ bằng giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong trong phong bao ký hiệu A1. T khai, là ma túy heroine mua về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số: 146/KLGĐ ngày 17/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh V kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng bằng 0,1296g (không phảy một hai chín sáu gam, không kể bao bì) loại Heroine.

Vật chứng của vụ án bao gồm: 01 bao gói niêm phong ký hiệu A1= 0,0998g còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như các nội dung đã nêu ở trên.

Bản cáo trạng số: 33/CT - VKSYL ngày 26/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh V đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và phân tích lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ được. Từ đó có đủ cở sở để xác định bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Ngọc T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 13/01/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo T.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất quan điểm về xử lý vật chứng liên quan đến vụ án và án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Ngọc T không có ý kiến gì tham gia tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án này đều hợp pháp và đúng theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không có kiến nghị hay khắc phục gì.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà , bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố mà không có lời tự bào chữa nào khác. Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; phù hợp với các vật chứng đã thu được và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 13/01/2023, tại đoạn đường liên thôn thuộc khu vực thôn Đ 1, xã N, huyện Y, tỉnh V. Tổ công tác của Công an huyện Yên Lạc đã kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Ngọc T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ được gồm có: Thu giữ tại lòng bàn tay trái của T 01 gói nhỏ kết luận là ma túy có khối lượng 0,1296g chứa chất heroine.

Với hành vi trên của Nguyễn Ngọc T đã có đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định:

“Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm …c, Heroin ,… có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam …” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân; ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, khi lượng hình cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm minh trước pháp luật mới có tính răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Nguyễn Ngọc T là đối tượng bị nghiện ma túy lâu năm, lại có nhân thân xấu. Năm 2020, T đã có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, mặc dù bị cáo chưa được xóa án tích nhưng bị cáo vẫn còn tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội này, thuộc trường hợp tái phạm nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có bố đẻ là ông Nguyễn Ngọc H được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến chống Mỹ cho nên bị cáo được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nguồn gốc ma túy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Ngọc T khai nhận. Khoảng 07 giờ 45 phút ngày 13/01/2023, T đang ở nhà thì có Nguyễn Đức A là người ở cùng thôn điều khiển xe mô tô đến và rủ T góp tiền đi mua ma túy về sử dụng, T đồng ý và đưa cho A 100.000đ. Sau đó, A điều khiển xe mô tô chở T đến khu vực cổng làng thôn Phong Doanh, xã Bình Dương, huyện Vĩnh Tường, tỉnh V để tìm mua ma túy. Đến nơi, A bảo T xuống xe còn A một mình đi vào làng Phong Doanh mua ma túy. Khoảng 5 phút sau, A quay lại lấy ra 01 gói ma túy rồi chia làm 02 phần, đưa cho T 01 phần, phần còn lại A sử dụng ngay tại cổng làng Phong Doanh. Sau đó, A điều khiển xe chở T đi về huyện Yên Lạc để về nhà. Khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đoạn đường liên thôn thuộc thôn Đ 1, xã N thì T xuống xe đi bộ về nhà, còn A điều khiển xe đi đâu T không biết. Khi T đang đi bộ trên đường liên thôn thì bị tổ công tác Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang và thu giữ tang vật theo quy định. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra chưa có đủ căn cứ để xác định, Nguyễn Đức A có hành vi mua ma túy như lời khai trên của T. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý hình sự đối với A.

Về xử lý vật chứng của vụ án:

Do bao gói niêm phong ký hiệu A1 = 0,0998g là mẫu vật được Cơ quan giám định hoàn trả lại sau khi đã giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần Tịch thu tiêu hủy.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Do vậy, bị cáo Nguyễn Ngọc T có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng, bản thân bị cáo là đối tượng bị nghiện ma túy lâu năm, lại không có công việc ổn định, thu nhập bấp bênh, gia đình thuộc diện kinh tế khó khăn, điều kiện kinh tế của bị cáo không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên./.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Ngọc T 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị báo bị bắt tạm giữ, tạm giam 13/01/2023.

Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 bao gói niêm phong ký hiệu A1 = 0,0998g do Cơ quan giám định hoàn trả là vật Nhà nước cấm lưu hành.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Chi cục thi hành án huyện Yên Lạc và Công an huyện Yên Lạc ngày 18 tháng 5 năm 2023).

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2023/HS-ST

Số hiệu:35/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về