Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 350/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 350/2022/HS-PT NGÀY 08/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 218/2022/TLPT-HS ngày 07/6/2022 đối với bị cáo Trần Đình K do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Đình K (Tên gọi khác: không); Sinh năm: 1999 tại tỉnh Đồng Nai;

Nơi thường trú: 62C/9, tổ 4, khu phố 3A, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Đình G, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Thanh H1, sinh năm 1975; Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự: không.

Bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 06/07/2021 đến ngày 14/07/2021. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú số 160/LCĐKNCT ngày 26/02/2022 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Đồng Nai (Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Đình K là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 05/7/2021, K đến khu vực vòng xoay H2 thuộc phường Đ, thành phố H, tỉnh 1 Đồng Nai mua của người phụ nữ tên Nở (không rõ lai lịch) 01 (một) gói ma túy tổng hợp (ma túy đá), với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để sử dung. Sau khi mua được ma túy, K lấy một phần sử dụng, phần còn lại K cất giấu để sử dụng dần.

Khoảng 10 giờ ngày 06/7/2021, K cất giấu 01 gói ma túy tổng hợp trong túi xách màu đen rồi đeo túi xách trên người. Sau đó K điều khiển xe mô tô biển số 60F1220.78 đến nhà anh Đặng Hữu N (bạn K) ở khu phố 1, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai và cùng anh Nghĩa đến nhà anh Nguyễn Minh T1 (bạn của K, N) ở số 101/16, khu phố 6, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai chơi (anh N, T1 không biết việc K đang cất giấu ma túy trong túi xách K đang đeo trên người).

Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày, trong lúc K đang ở nhà anh Thành (địa chỉ nêu trên) thì K bị Công an phường Tân Mai, thành phố H kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Vật chứng, tài sản đồ vật thu giữ của Trần Đình K, gồm:

+ 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (K khai là ma túy của K).

+ 01 ống nỏ của K dùng để sử dụng ma túy.

+ 01 túi xách màu đen của K sử dụng để cất giấu ma túy.

+ 01 điện thoại di động Iphone 11, số imei 356342101449YYY là tài sản của Trần Đình K không liên quan đến vụ án.

+ 01 xe mô tô Honda, loại AirBlade 60F1-220.XX. Quá trình điều tra xác định, xe mô tô biển số 60F1-220.XX là tài sản của bà Nguyễn Thị Thanh H1 (mẹ bị cáo K). Ngày 06/7/2021, bà H1 cho K mượn xe mô tô trên để sử dụng nhưng không biết K sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã giao trả xe mô tô biển số 60F1-220.XX cho bà Hiên.

* Tại Kết luận giám định số 1456/KLGĐ-PC09 ngày 12/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4198 gam, loại: Methamphetamine”.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

- Tuyên bố bị cáo Trần Đình K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Trần Đình K 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị bắt đi thi hành án trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 06/07/2021 đến ngày 14/07/2021.

Ngoài ra bản án còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 18/4/2022 bị cáo Trần Đình K kháng cáo xin được hưởng án treo.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa:

Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Đình K phù hợp về nội dung, hình thức và trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Trần Đình K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự năm, xử phạt: Bị cáo Trần Đình K 12 (Mười hai) tháng tù là đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì mới, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo K làm trong hạn luật định, đúng quy định pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Đình K thừa nhận hành vi phạm tội như mô tả tại bản án sơ thẩm; bị cáo xác định không bị oan sai, đồng thời trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm bị cáo không bị ép cung hoặc dùng nhục hình, lời khai của bị cáo hoàn toàn chính xác và tự nguyện. Do đó, bản án sơ thẩm là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung kháng cáo: Bị cáo K kháng cáo xin được hưởng án treo, xét thấy:

Khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào hành vi của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, để xác định mức án phạt đối với bị cáo là đúng quy định, tương xứng với mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo K kháng cáo xin hưởng án treo và trình bày bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, là lao động chính trong gia đình, có cha và ông bà ngoại là người được nhà nước tặng thưởng huân huy chương, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các tình tiết này đã được cấp sơ thẩm xem xét và tại cấp phúc thẩm bị cáo cũng không nộp thêm tài liệu chứng cứ gì mới. Cấp sơ thẩm đã quyết định mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, vì vậy Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo K.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[5] Quan điểm của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đình K, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 141/2022/HS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt: Bị cáo Trần Đình K 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị bắt đi thi hành án trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 06/07/2021 đến ngày 14/07/2021.

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo K phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 350/2022/HS-PT

Số hiệu:350/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về