Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HỒI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 20/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 12 năm 2023 Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2023/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐXXST -HS ngày 06 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Phạm Anh Đ; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 21/9/2002 tại tỉnh K; nơi cư trú: Thôn T, xã J, thành phố K, tỉnh K; nghề nghiệp: Không ổn định; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 10/12; con ông Phạm Hào Q và bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ con; tiền sự; tiền án: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2023 đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Chị Trần Thị N, sinh năm: 1982; địa chỉ: Thôn 3, xã D, huyện Đ, tỉnh K. Vắng mặt.

2. Ông Lê Văn T, sinh năm: 1959; địa chỉ: Tổ dân phố 1, thị trấn P, huyện N, tỉnh K. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Anh Đ là đối tượng sử dụng ma túy. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 15/9/2023, Đ đi xe buýt từ thành phố K đến huyện Đ để mua ma túy sử dụng. Do trước đó Đ đã nhiều lần mua ma túy của một người phụ nữ tên T (không rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực vòng xoay thị trấn Đ, huyện Đ (nút giao thông đường Hùng Vương và đường Trường Chinh, thuộc khối 10, thị trấn Đ) nên Đ không chủ động gọi điện thoại cho T trước mà để khi đến khu vực vòng xoay mới tìm gặp T. Đến khoảng 09 giờ 00 phút cùng ngày xe chạy đến vòng xoay thị trấn Đ thì Đ xuống xe. Đ thấy Tg đang đứng ở khu vực phía trước quán nước vỉa hè cạnh vòng xoay, thì Đ đi đến gặp và đưa cho T 700.000 đồng nhờ T mua chất ma túy và được T đồng ý. Sau đó T đi đâu không rõ, còn Đ vào ngồi ở quán nước chờ. Trong khi chờ, Đ gọi nước để uống nhưng được một người đàn ông (không rõ lai lịch) đang ngồi ở quán nói chủ quán đang đi lấy hàng. Khoảng 15 phút sau, khi người đàn ông không rõ lai lịch ở quán rời đi và chủ quán chưa về thì T quay lại đưa cho Đ 01 (một) túi nilon trong suốt có quấn băng keo màu xanh bên ngoài và nói “Bốn cái”, Đ hiểu bên trong có chứa chất ma túy nên nhận lấy rồi bỏ vào túi áo ngực bên trái đang mặc trên người, sau đó Đ tiếp tục chờ bắt xe buýt đi đến huyện N, tỉnh K để sử dụng.

Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày khi đến Công viên thị trấn P, huyện N, Đ xuống xe đi bộ đến khách sạn Sen V tìm thuê phòng để sử dụng. Khi đến khách sạn Sen V Đ chưa làm việc với lễ tân để thuê phòng ngay mà đi tìm phòng thích hợp, kín đáo, ít người qua lại để thuê sử dụng. Khi Đ đang đứng bên ngoài, cạnh cửa phòng 305 thì tổ công tác Công an huyện N phát hiện, yêu cầu kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo sơ mi màu đen bên trái Đ đang mặc trên người có 01 (một) vật được cuốn băng keo màu xanh. Tiến hành mở băng keo phát hiện bên trong có 01 (một) túi nilon trong suốt, có viền màu đỏ, miệng túi có mép vuốt, kích thước (05 x 4,2) cm, bên trong có 04 (bốn túi) nilon nhỏ trong suốt được hàn kín, trong mỗi túi nilon nhỏ đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Đ khai chất rắn dạng tinh thể màu trắng trên là ma túy đá, do Đ nhờ một người phụ nữ tên T (không rõ lai lịch) tại thị trấn Đ mua giúp để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành đưa Đ cùng tang vật liên quan về trụ sở Công an thị trấn P lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại cơ quan Công an Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân.

Về vật chứng của vụ án: 01 (một) túi nilon trong suốt, có viền màu đỏ, miệng túi có mép vuốt, kích thước (05 x 4,2) cm, bên trong có 04 (bốn túi) nilon nhỏ trong suốt được hàn kín, trong mỗi túi nilon nhỏ đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng; 01 (một) đoạn băng keo màu xanh.

Tại bản Kết luận giám định số 250/KL-KTHS ngày 21/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Mẫu chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có tổng khối lượng là 0,341 gam (Không phẩy ba bốn một).

Bản Cáo trạng số: 37/CT-VKS-NH ngày 28/11/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố Phạm Anh Đ để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra cũng như vật chứng thu giữ và bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Anh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung;

tịch thu tiêu hủy số ma túy bị thu giữ còn lại sau giám định và 01 đoạn băng keo màu xanh.

Trước khi nghị án Bị cáo thực hiện quyền được nói lời sau cùng: Bị cáo công nhận hành vi phạm tội của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo sớm được hòa nhập với cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, lời khai nhận tội của bị cáo khai tại phiên toà là hoàn toàn tự nguyện, khách quan, thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang cũng như lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định chất ma túy số: 250/KL-KTHS, ngày 21/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kon Tum và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án, vì vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11 giờ 00 ngày 15/9/2023, Tổ công tác Công an huyện N tiến hành kiểm tra Phạm Anh Đ đang chuẩn bị thuê phòng tại khách sạn Sen V trên đường Hùng Vương, thuộc tổ dân phố 1, thị trấn P, huyện N phát hiện trong túi áo sơ mi màu đen bên trái Đ đang mặc trên người có 01 (một) vật được cuốn băng keo màu xanh, bên trong có 01 (một) túi nilon trong suốt, có viền màu đỏ, miệng túi có mép vuốt, kích thước (05 x 4,2) cm, bên trong có 04 (bốn túi) nilon nhỏ trong suốt được hàn kín, trong mỗi túi nilon nhỏ đều chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng là ma túy, loại: Methamphetamine có tổng khối lượng là 0,341 gam đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, do đó Cáo trạng số: 37/CT- VKS-NH ngày 28/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma tuý của nhà nước. Bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức pháp luật đầy đủ nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là độc dược huỷ hoại sức khoẻ người sử dụng, những người sử dụng ma tuý có nguy cơ thực hiện hành vi phạm tội khác. Vì vậy cần xử lý bị cáo với mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục, răn đe và phòng ngừa.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự gì. [5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Đã từng là chiến sỹ phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam đóng quân tại Lữ đoàn 293, Binh chủng Công binh, đóng quân tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hoà, trong thời gian phục vụ trong Quân đội Nhân dân Việt Nam bị cáo chấp hành nghiêm kỷ luật Quân đội, pháp luật Nhà nước, được Sư đoàn nơi bị cáo đóng quân xác nhận, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tuy nhiên, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, bị cáo tàng trữ trái phép chất ma tuý chỉ nhằm mục đích sử dụng không có tư lợi gì, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước có ghi nội dung “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 250/KL-KTHS”, mặt sau có các dấu hình tròn có nội dung “*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ* CÔNG AN TỈNH KON TUM*” và các chữ ký ghi tên Phùng Văn Q, Nguyễn Văn N tại các mép dán (mẫu vật hoàn lại sau giám định là 0,322 gam); 01 (một) đoạn băn keo màu xanh. Xét đây là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu huỷ.

[9] Về các tình tiết khác: Về việc xử lý đối tượng liên quan trong vụ án: Phạm Anh Đ khai: Đức mua ma túy của một người tên T nhưng không rõ nhân thân lai lịch tại vòng xoay thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh K với giá 700.000 đồng. Cơ quan điều tra Công an huyện N cùng Công an huyện Đ đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy tìm đối tượng bán ma túy cho Đ tại địa bàn nêu trên nhưng chưa có kết qủa. Cơ quan điều tra tiếp tục phối hợp xác minh, truy tìm khi nào có kết quả sẽ xử lý sau.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 329, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Anh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về Hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Anh Đ 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 15-9-2023.

Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong mặt trước ghi “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 250/KL- KTHS”, mặt sau có các dấu hình tròn có nội dung “*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ* CÔNG AN TỈNH KON TUM*” và có các chữ ký ghi tên Phùng Văn Q, Nguyễn Văn N tại các mép dán (mẫu vật hoàn lại sau giám định là 0,322 gam); 01 (một) đoạn băn keo màu xanh.

Vật chứng nêu trên theo biên bản giao nhận ngày 05/12/2023 giữa Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh K.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Anh Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 20-12-2023.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hồi - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về