Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU PHONG, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 15/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo: Đoàn H, sinh năm 1993, tại Quảng Trị; nơi cư trú: thôn Đ, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: không nghề; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn H, sinh năm 1972 và bà Võ Thị H, sinh năm 1964; đều trú tại: thôn Đ, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/9/2023 đến ngày 22/9/2023 thì được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay - Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Đoàn Minh C, sinh năm 1963; Nơi cư trú: thôn Đ, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị -Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/9/2023, Tổ tuần tra Công an huyện Triệu Phong phát hiện Đoàn H, sinh năm 1993, trú tai: thôn Đ, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, đang điều khiển xe mô tô biển soát 74D1- xxxxx có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe kiểm tra. Khi thấy Công an ra hiệu lênh dừng xe thì H vứt ra lề đường một túi ni lon có chứa 10 viên nén màu hồng nghi là Ma túy dạng hồng phiến. Tổ công tác đã tiến hành mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đoàn H, cùng toàn bộ tang vật. Tại cơ quan điều tra, H khai nhận: do có nhu cầu sử dụng Ma túy nên H nãy sinh ý định mua Ma túy về sử dụng. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 14/9/2023, H dùng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO của mình gắn sim số 0329.800.xxx gọi cho một thanh niên không quen biết qua số điện thoại 0565.959.xxx hỏi mua 500.000 đồng Ma túy tổng hợp, người này hẹn H đến khu vực cổng làng thôn Nại Cửu, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong để giao Ma túy. Sau đó, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Future gắn biển kiểm soát 74D1-xxxxx đến địa điểm đã hẹn. Khi đến điểm hẹn, H gặp một thanh niên không rõ lai lịch, địa chỉ. H đưa cho thanh niên này 500.000 đồng và nhận lại một túi nilon chứa Ma túy, khi nhận H không kiểm tra số lượng. Lấy được Ma túy, H điều khiển xe máy về nhà để sử dụng. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, khi đang điều khiên xe đến Km 14+850, Quốc lộ 49C thuộc địa phận thôn Bích Lộc Triêu, xã Triệu Long thì thấy lực lượng Cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ ra hiệu lệnh dừng xe. Vì lo sợ bị Công an phát hiện Ma túy nên H điều khiển xe máy qua phía bên trái đường rồi vứt túi nilon chứa Ma túy trên bãi đất sát lề đường nên bị lực lượng tuần tra phát hiện, bắt và thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận định giám định số 919/KL-KTHS ngày 22/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 10 viên nén màu hồng, hình trụ tròn, trên bề mặt mỗi viên có chữ WY (được niêm phong trong phong bì ký hiệu “M1”) gửi đến giám định là Ma túy: loại Methamphetamine, có khối lượng mẫu 0,9562g. Methamphetamine là chất Ma túy nằm trong danh mục II, số thứ tự 323 theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 quy định về các danh mục chất Ma túy và tiền chất.

Cáo trạng số 31/CT-VKSTP ngày 20/11/2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo Đoàn H về tội “Tàng trữ trái phép chất Ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Đoàn H từ 12-15 tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 15/9/2023 đến ngày 22/9/2023; về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 01 túi niêm phong, ký hiệu PS3 1905485 cùng bao gói hoàn trả sau giám định; tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu OPPO; về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Triệu Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Triệu Phong, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 14/9/2023, Tổ tuần tra Công an huyện Triệu Phong đang thực hiện nhiệm vụ tại Km14 + 850, quốc lộ 49C thuộc địa phần thôn Bích Lộc Triêu, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị thì phát hiện Đoàn H đang điều khiển xe mô tô có biểu hiện nghi vấn, nên ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Khi kiểm tra thì Đoàn H vứt ra lề đường một túi nilon, qua kiểm tra thì phát hiện bên trong túi nilon có chứa 10 viên nén màu hồng nghi là Ma túy tổng hợp dạng hồng phiến. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Đoàn H, cùng toàn bộ tang vật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại bản kết luận giám định số 919/KL-KTHS ngày 22/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 10 viên nén màu hồng, hình trụ tròn, trên bề mặt mỗi viên có chữ WY (được niêm phong trong phong bì giấy màu trắng ký hiệu “M1”) gửi đến giám định là Ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu 0,9562g. Methamphetamine là chất Ma túy nằm trong danh mục IIC, số thứ tự 247 theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP, ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất Ma túy và tiền chất. Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất Ma túy loại Methamphethamine có khối lượng 0,9562g với mục đích để sử dụng của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất Ma túy và đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất Ma túy” được quy định xử phạt theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: bị cáo biết rõ tác hại của Ma túy và việc tàng trữ trái phép chất Ma túy là vi phạm pháp luật về hình sự nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi tàng trữ trái phép chất Ma túy của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất Ma túy mà còn làm mất trật tự trị an, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân trên địa bàn. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo một cách nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhưng khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì: trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự năm 2016 nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Sau khi xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội và quá trình nhân thân của bị cáo Hội đồng xét xử thấy: cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn huyện Triệu Phong.

Bị cáo Đoàn H đang thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 34/2023/LCĐKNCT-TA ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện Triệu Phong, nhưng bị phạt tù và tính đến ngày án có hiệu lực pháp luật không đủ 45 ngày nên Hội đồng xét xử tiếp tục ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo với thời hạn 45 ngày kể từ ngày xét xử để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với người thanh niên bán Ma túy cho Đoàn H cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người này, nên không có cơ sở xử lý.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đoàn Minh C, Hội đồng xét xử thấy: ông Đoàn Minh C là chủ sở hữu xe mô tô biển soát 74D1-xxxxx. Ông C gửi nhờ xe ở nhà H và việc H đã tự ý lấy xe đi mua Ma túy ông C hoàn toàn không biết, nên ông C không có lỗi. Trong quá trình điều tra cơ quan Công an đã trả lại xe mô tô nói trên cho ông C, nay ông C không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về vật chứng: trong quá trình điều tra cơ quan Công an đã tạm giữ các vật chứng sau: 01 túi niêm phong ký hiệu PS3 1905485 cùng bao gói hoàn trả sau giám định; 01 điện thoại di động của Đoàn Huỳnh, màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh, phía sau có chữ “OPPO”, số IMEI 1: 866314054613235, số IMEI2: 866314054613227, máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong. Hội đồng xét xử thấy: đối với 01 túi niêm phong ký hiệu PS3 1905485 cùng bao gói hoàn trả sau giám định, đây là vật cấm tàng trữ nên cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh, phía sau có chữ “OPPO”, do bị cáo sử dụng để làm phương tiện phạm tội, cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, nộp Ngân sách Nhà nước.

[4] Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Đoàn Huỳnh phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự.

Tuyên bố bị cáo: Đoàn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất Ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đoàn H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 15/9/2023 đến ngày 22/9/2023.

2. Về xử lý vật chứng.

Áp dụng điểm các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 túi niêm phong ký hiệu PS3 1905485 cùng bao gói hoàn trả sau giám định.

- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, vỏ màu xanh, phía sau có chữ “OPPO”.

Các loại vật chứng nói trên hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Phong, đặc điểm của các loại vật chứng này được thể hiện theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/11/2023 giữa Công an huyện Triệu Phong và Chi cục thi hành án dân sự huyện Triệu Phong.

3. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Đoàn H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án trên một cấp để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Triệu Phong - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về