Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2023/HS-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 06 năm 2023 tại Trụ sở TAND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2023/TLST-HS ngày 12 tháng 05 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2023/QĐXXST - HS ngày 09 tháng 06 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T; tên gọi khác: Không; Sinh năm 1964 tại Nam Định; Nơi ĐKHKTT - Nơi cư trú: TDP B, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Trình độ văn hóa: 09/10; Dân tộc: Kinh: Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Văn D; con bà: Hoàng Thị N; Có vợ là: Phạm Thị T; Có 02 con, con lớn nhất sinh năm 1985, con nhỏ nhất sinh năm 1988. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 27/6/1992, TAND huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà (cũ) xử phạt 15 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân” theo bản án số 26/HSST, đến ngày 17/7/1993 chấp hành xong.

Ngày 30/10/2009, UBND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc, đến ngày 02/11/2010 chấp hành xong.

Ngày 14/02/2020, TAND huyện Giao Th, tỉnh Nam Định xử phạt 01 năm 6 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo bản án số 14/2020/HSST, đến ngày 05/02/2021 chấp hành xong.

Bị cáo bị “tạm giữ” từ ngày 07/02/2023 đến ngày 13/02/2023. bị “tạm giam” từ ngày 13/02/2023 đến nay. Có mặt.

Người làm chứng: Mai Văn Trinh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 07/02/2023, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên T điều khiển xe máy biển số 25N1-024.95 đi từ nhà xuống khu vực chân cầu Lạc Quần thuộc xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định mục đích tìm mua ma tuý để sử dụng. Khi đến nơi, T thấy một người đàn ông không quen biết đang đứng một mình ở khu vực chân cầu Lạc Quần thuộc xã Xuân Ninh, huyện Xuân T. Nghĩ người này có bán ma tuý, T đến gần hỏi: “Bán cho anh một quả trắng" ý hỏi mua ma tuý Heroine, người đàn ông nhìn T rồi nói: “Đưa tiền đây”. T lấy 80.000 đồng đưa cho người đàn ông trên và nhận lại 01 gói giấy nhỏ màu trắng. T kiểm tra đúng loại ma tuý cần mua liền cất giấu trong người rồi đi về nhà để sử dụng. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi T điều khiển xe máy đến đoạn đường tỉnh lộ 488B thuộc thôn Quần Lương, xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định thì bị Công an thị trấn Cát Thành và Công an xã Trực Tuấn, huyện Trực Ninh kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

Thu giữ trong túi quần bên trái phía trước T đang mặc có 01 gói giấy nhỏ màu trắng, mở kiểm tra bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng. Đây là gói ma tuý Heroine mà T cất giấu để sử dụng cho bản thân, niêm phong ký hiệu là M.

Tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Wave RSX, biển số 25N1-024.95 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 001494 mang tên Nguyễn Đức Nhuệ.

Kết luận giám định số 318/KL-KTHS ngày 09/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định xác định: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói giấy nhỏ màu trắng, trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma tuý. Loại ma tuý là Heroin. Khối lượng mẫu M là 0,106 gam.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Cáo trạng số 31/CT - VKS - TN ngày 11 tháng 05 năm 2023 của VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện VKSND huyện Trực Ninh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử :

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điều 38 BLHS xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 18 - 24 tháng tù.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo trong quá trình điều tra còn lại sau giám định.

Lời nói sau cùng bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và xin HĐXX giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm được đoàn tụ cùng gia đình, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thuộc Cơ quan CSĐT, VKSND huyện Trực Ninh đã thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố đối với vụ án đều hợp pháp.

[2] Về quan điểm của Đại diện VKS, bị cáo tại phần thủ tục tranh luận: HĐXX thấy việc tranh luận, đối đáp đúng trình tự quy định của pháp luật, các bên đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình khi tranh tụng và đều giữ nguyên quan điểm. Quan điểm của các bên đã được HĐXX cân nhắc, đánh giá khi nghị án.

[3] Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ trực tiếp xâm hại tới trật tự quản lý độc quyền của Nhà nước về ma tuý - là quan hệ xã hội thuộc khách thể đã được BLHS ghi nhận và bảo vệ. Bị cáo thừa nhận vật chứng mà Cơ quan CSĐT đã thu giữ là ma túy; Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra.

Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản ghi lời khai người làm chứng; Kết luận giám định.

Từ những chứng cứ nêu trên - HĐXX nhận thấy có đủ cơ sở để kết luận:

Hành vi cất giấu trái phép 0.106g Heroine ngày 07/02/2023 của bị cáo Phạm Văn T đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 249 BLHS.

Ma tuý là một trong nguyên nhân phát sinh tình hình tội phạm, trực tiếp ảnh hưởng tới sức khoẻ, kinh tế của bản thân, của gia đình bị cáo và của toàn xã hội, là tệ nạn đã và đang bị toàn xã hội lên án mạnh mẽ. Chính vì thế Nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật đã nghiêm cấm hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

Vì vậy, để đảm bảo trật tự pháp luật, phòng ngừa chung tình hình tội phạm, việc áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là điều cần thiết.

Việc VKSND huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo Phạm Văn T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản Cáo trạng số 31/CT - VKS - TN ngày 11 tháng 05 năm 2023, là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội do bị cáo đã gây ra, xét nhân thân của bị cáo, HĐXX thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tiếp tục cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội và đảm bảo tác dụng giáo dục phòng ngừa chung tình hình tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc tới tình tiết: Bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải - Để giảm nhẹ 1 phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để vừa thể hiện tính nhân đạo, công bằng của pháp luật, vừa đảm bảo tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, HĐXX thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng của vụ án là những vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô BS 25N1-024.95 và 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 001494 mang tên Nguyễn Đức N, Qua xác minh là tài sản của chị Phạm Thị Thanh Th, sinh năm 1985, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: TDP B, thị trấn C, huyện T, tỉnh Nam Định (là con gái của T). Ngày 07/02/2023, chị Th cho T mượn chiếc xe máy để làm phương tiện đi lại, chị Th không biết việc và T không nói sử dụng để đi mua ma tuý. Sau khi xác minh, Cơ quan điều tra trả lại cho chị Th.

HĐXX xét thấy việc xử lý vật chứng của CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh là đúng quy định pháp luật nên không xem xét tại phiên tòa.

 [8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt Phạm Văn T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07 tháng 02 năm 2023.

2. Vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo trong quá trình điều tra còn lại sau giám định đựng trong 01 bì thư số 318/KL - KTHS. (Vật chứng trên đây có đặc điểm như biên bản bàn giao giữa CQCSĐT Công an huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định ngày 16 tháng 05 năm 2023).

3. Án phí Hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong T hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2023/HS-ST

Số hiệu:34/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về