Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHONG, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 34/2022/HSST NGÀY 08/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 167/2021/HSST, ngày 29 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐHS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phong, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc C (tên gọi khác: Bi), Giới tính: Nam, Sinh ngày: 17.6.2003; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: thôn V, xã H, huyện P, tỉnh Bình Thuận; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: làm thuê; Cha: Nguyễn Văn T (sinh: 1977), Mẹ: Phạm Thị Xuân H (sinh 1980) hiện ở thôn V, xã H, huyện P, tỉnh Bình Thuận; Anh, chị, em ruột: có 04 người, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh nám 2017; Vợ, con: chưa có; Tiền án, Tiền sự: không

Quá trình hoạt động của bản thân bị cáo: Ngày 27.11.2019 bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 07.4.2021 đến ngày 07.12.2021, hiện đang tại ngoại ở thôn Vĩnh Hải, xã Vĩnh Hảo, huyện P; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 02/02/2021 Nguyễn Quốc C rủ Nguyễn Thanh P1 đến nhà ngoại của Nguyễn Tấn P tại thôn V, xã H, huyện P chơi, Phúc đồng ý. Khi đến nơi C nhìn thấy P cùng N (bạn gái của P không rõ lai lịch) đang ngồi trên nền nhà, gần chỗ ngồi của P có để bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, bên trong nỏ thủy tinh có sẵn ma túy đá. P lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá cùng N sử dụng, C và P1 cũng ngồi vào sử dụng ma túy đá chung, một lúc sau C đi ra ngoài có công việc còn P1 ngồi chơi tại nhà P, khi về C nghe P1 gọi điện thoại cho Nguyễn Văn D rủ vào nhà ngoại của P chơi với P1. Lúc này P lấy gói nylon chứa ma túy bỏ vào túi vải màu đen, một lúc sau Nguyễn Văn T2 điều khiển xe mô tô chở D đến nhà ngoại của P cùng sử dụng ma túy đá với P, N, P1 và C. Sau đó P mượn xe mô tô của T2 để đi công việc thì T2 đồng ý, trước khi đi P hất mặt vào gói ma túy bỏ trong túi vải màu đen và nhìn C ý nói C trông coi dùm gói ma túy, C đồng ý. Sau đó C, P1, T2 và D cùng nhau sử dụng hết chất ma túy có sẵn trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá rồi nằm nghỉ. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày tổ công tác Công an xã H, huyện P kiểm tra hành chính nhà ngoại của P, phát hiện có công an kiểm tra C lấy gói nylon chứa ma túy đá bỏ trong túi vải màu đen vứt ra ngoài cửa sổ thì bị phát hiện. Thu giữ tại nơi C cùng nhóm bạn đang ngồi 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá bên trong nỏ thủy tinh không có gì, 01 túi vải màu đen bên trong có 46 gói nylon mỗi gói được nẹp khóa một đầu màu xanh, kích thước 02cm x 2,5cm bên trong không có gì, thu giữ bên ngoài cửa sổ 01 gói nylon hàn kín có nẹp khóa một đầu màu đỏ kích thước 04cm x 08cm bên trong chứa tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì số 01), C khai nhận chất màu trắng trong gói nylon là ma túy đá của Nguyễn Tấn P giao cho C quản lý. Thu giữ của Nguyễn Thanh P1 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh trắng, thu giữ của Nguyễn Văn T2 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh tím, thu giữ của Nguyễn Văn D01 điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, thu giữ 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu xanh lá, các đối tượng khai nhận là điện thoại của Nguyễn Tấn P.

Tại bản kết luận giám định số 195/KLGĐ-PC09 ngày 17.02.2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M (được niêm phong trong phong bì số 01) gửi giám định có khối lượng 5,0524 gam là Methamphetamine.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P: vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 07/CT-VKS-TP ngày 22/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc C phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm S khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 101; Điều 55, 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Tuyên phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù, tổng hợp hình phạt 09 tháng tù tại bản án số 124/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện P. Buộc bị cáo phải chấp hành từ 04 năm 03 tháng đến 04 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: Gói nylon và 4,6948 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 195 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 túi vải màu đen có dòng chữ màu trắng BAODELY kích thước (5x5x20)cm bên trong có 46 gói nylon mỗi gói được nẹp khóa một đầu màu xanh, kích thước 02cm x 2,5cm bên trong không có gì (được niêm phong ký hiệu số 02); 01 chai nhựa được đậy nắm, trên nắp có 01 nỏ thủy tinh không còn nguyên vẹn và 01 đoạn ống hút màu xanh đen dài khoảng 50cm (được niêm phong ký hiệu số 03).

- Điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh trắng thu giữ của Nguyễn Thanh P1; điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh tím thu giữ của Nguyễn Văn T2, điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh thu giữ của Nguyễn Văn D do không liên quan đến vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trao trả lại cho P1, T2 và D nên không xem xét.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu xanh lá (được niêm phong ký hiệu số 04) được lưu giữ kèm theo hồ sơ tách vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân huyện P: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Quốc C thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản Cáo trạng số 07/CT-VKS-TP, ngày 22/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P đã truy tố. Cụ thể bị cáo khai nhận: Trước khi đi Nguyễn Tấn P có lấy gói nylon chứa ma túy bỏ vào túi vải màu đen và sau đó ít phút P hất mặt vào gói ma túy bỏ trong túi vải màu đen và nhìn bị cáo ý nói bị cáo trông coi dùm gói ma túy này, bị cáo đồng ý. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày Tổ công tác Công an xã H, huyện P kiểm tra hành chính nhà ngoại của P, bị cáo phát hiện có Công an kiểm tra bị cáo liền lấy gói nylon chứa ma túy đá bỏ trong túi vải màu đen vứt ra ngoài cửa sổ thì bị phát hiện. Bị cáo thừa nhận chất màu trắng trong gói nylon là của Nguyễn Tấn P giao cho bị cáo quản lý là ma túy đá.

Lời khai của bị cáo C phù hợp với lời khai của người làm chứng Nguyễn Thanh P1, Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Văn D, phù hợp với biên bản thu giữ các tang vật chứng và kết quả giám định chất ma tuý, đủ chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Quốc C đang tàng trữ Methamphetamine có khối lượng 5,0524 gam.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Đây là vụ án “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xảy ra vào khoảng 22 giờ ngày 02/02/2021 tại thôn V, xã H, huyện P do bị cáo Nguyễn Quốc C tàng trữ Methamphetamine có khối lượng 5,0524 gam để sử dụng thì bị phát hiện như đã phân tích trên.

Vì vậy, Cáo trạng số 07/CT-VKS-TP ngày 22/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện P truy tố bị cáo Nguyễn Quốc C về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự và gây nguy hiểm cho xã hội; bị cáo biết rõ việc tàng trữ ma túy bị nghiêm cấm nhưng vẫn cất giấu nên cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật, vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm S khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cũng cần xem xét giảm nhẹ 01 phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Quốc C, sinh ngày 17.6.2003 tính đến ngày phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nhận thức có phần hạn chế nên áp dụng chương XII của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) để xử lý bị cáo nhẹ hơn so với người đủ 18 tuổi trở lên.

Tuy nhiên bị cáo Nguyễn Quốc C đã bị Tòa án nhân dân huyện P xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, Nhưng trong thời gian thử thách bị cáo đã phạm vào tội mới đang xét xử nên 09 tháng tù treo của bị cáo tại bản án số 124/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện P chuyển thành 09 tháng tù giam và buộc bị cáo phải chấp hành cho cả hai bản án theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Đối với Nguyễn Thanh P1, Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Văn D không liên quan đến hành động phạm tội của bị cáo C nhưng xác định P1, T2 và D có sử dụng ma túy chung với bị cáo. Cơ quan CSĐT Công an huyện P đã sao trích hồ sơ chuyển Công an xã H, huyện P, tỉnh Bình Thuận và Công an xã Cà Ná, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận để quản lý người nghiện theo đúng quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Tấn P có liên quan đến vụ án nhưng không có mặt tại địa phương, không biết đang ở đâu, Cơ quan cảnh sát điều tra đã thông báo truy tìm nhưng không có kết quả. Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện P đã tách vụ án hình sự để xử lý trước đối với bị cáo Nguyễn Quốc C, khi nào làm việc được với Phương sẽ xử lý sau là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 gói nylon và 4,6948 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 195 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 túi vải màu đen có dòng chữ màu trắng BAODELY kích thước (5x5x20)cm bên trong có 46 gói nylon mỗi gói được nẹp khóa một đầu màu xanh, kích thước 02cm X 2,5cm bên trong không có gì (được niêm phong ký hiệu số 02); 01 chai nhựa được đậy nắm, trên nắp có 01 nỏ thủy tinh không còn nguyên vẹn và 01 đoạn ống hút màu xanh đen dài khoảng 50cm (được niêm phong ký hiệu số 03), đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh trắng thu giữ của Nguyễn Thanh P1; điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh tím thu giữ của Nguyễn Văn T2, điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh thu giữ của Nguyễn Văn D nên không xem xét nữa.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu XIAOMI màu xanh lá (được niêm phong ký hiệu số 04) được lưu giữ kèm theo hồ sơ tách vụ án.

[6] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện P:

Hội đồng xét xử thống nhất quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, về áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên ghi nhận.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm S khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 101; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc C 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù tại bản án số 124/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện P, buộc bị cáo Nguyễn Quốc C phải chấp hành 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án

[2] Biện pháp tư pháp: Áp dụng C khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 gói nylon và 4,6948 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 195 có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hồng Thích và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận; 01 túi vải màu đen có dòng chữ màu trắng BAODELY kích thước (5x5x20)cm bên trong có 46 gói nylon mỗi gói được nẹp khóa một đầu màu xanh, kích thước 02cm x 2,5cm bên trong không có gì (được niêm phong ký hiệu số 02); 01 chai nhựa được đậy nắm, trên nắp có 01 nỏ thủy tinh không còn nguyên vẹn và 01 đoạn ống hút màu xanh đen dài khoảng 50cm (được niêm phong ký hiệu số 03) (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/01/2022 của Cơ quan điều tra-Công an huyện P với Chi cục Thi hành án dân sự huyện P)

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Quốc C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2022/HSST

Số hiệu:34/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về