Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Trịnh Duy T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 28 tháng 8 năm 1995; tại huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi ĐKHKTT: Tiểu khu 9, thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; tạm trú: Bản C, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam;

Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Trịnh Bắc N, sinh năm 1970, con bà Vũ Thị H, sinh 1973; Bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20 tháng 9 năm 2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 30 phút ngày 20/9/2021, Tổ công tác Công an xã Chiềng Cọ phối hợp với Công an phường Chiềng Sinh - Công an thành phố Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã phát hiện, bắt quả tang Trịnh Duy T đang có hành vi cất giữ trái phép chất ma tuý.

Vật chứng thu giữ: 01 gói giấy bạc màu trắng, bên trong có 04 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng. (T tự giác lấy trong túi quần phía trước, bên phải đang mặc ra giao nộp, khai nhận là ma túy Hồng phiến cất giữ để sử dụng).

Ngày 20/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu gửi giám định chất ma túy, kết quả: “04 viên nén màu hồng, hình tròn đồng dạng có tổng khối lượng 0,39 gam, lấy 0,20 gam làm mẫu giám định, ký hiệu T. Còn lại 0,19 gam lưu kho, ký hiệu T1”. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La ra Quyết định trưng cầu giám định số 236/QĐ-ĐCSKT-MT đối với mẫu vật ký hiệu T.

Ngày 21/9/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La có Kết luận giám định số 1557, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,39 gam; loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Quá trình điều tra bị cáo Trịnh Duy T khai nhận: Do bản thân sử dụng chất ma túy nên khoảng 23 giờ 30 phút ngày 19/9/2021, Trịnh Duy T đi xe ôm từ phòng trọ tại bản Chậu Cọ, phường Chiềng Cơi, thành phố Sơn La đến khu vực tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, T xuống xe đi bộ một đoạn thì gặp 01 người nam giới (không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng bên lề đường. Qua nói chuyện, T hỏi và mua được của người nam giới đó 04 viên ma túy hồng phiến, được gói trong 01 mảnh giấy bạc với số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Người nam giới bán ma túy xong cho T rồi bỏ đi, T đứng lại, cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần phía trước, bên phải đang mặc rồi đi bộ tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Cọ, Công an phường Chiềng Sinh - Công an thành phố Sơn La phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Về nguồn gốc số ma túy trong vụ án, bị cáo khai nhận đã mua của 01 người nam giới (không biết tên tuổi, địa chỉ) vào ngày 19/9/2021 tại khu vực tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không có nguồn tài liệu chứng cứ nào khác. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở mở rộng vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 795/CT-VKSTP ngày 16/11/2021, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La đã truy tố bị cáo Trịnh Duy T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Trịnh Duy T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trịnh Duy T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt bị cáo Trịnh Duy T từ 16 tháng đến 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước ghi: “ Vật chứng lưu kho vụ Trịnh Duy T, sinh năm 1995 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 20/9/2021. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; Mảnh giấy bạc màu trắng; Mẫu lưu T1=0,19 gam”, mặt sau phong bì trên giấy dán giấy niêm phong số 040000 có ghi " Cơ quan CSĐT -CATP. Sơn La hồi 11 giờ 40 phút ngày 20/9/2021 tại CATP Sơn La", tại phần giáp lai của giấy dán niêm phong và phong bì có chữ ký, dòng ghi họ tên của thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 hình dấu tròn đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa , bị cáo Trịnh Duy T nhận tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Sơn la, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thể hiện:

Ngày 20/9/2021, Trịnh Duy T đã có hành vi cất giữ trái phép 0,39 gam chất ma túy là Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.

Tại phiên tòa bị cáo Trịnh Duy T giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ:

- Lời khai nhận tội của bị cáo;

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 01giờ 00 phút ngày 20/9/2021 tại tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đối với Trịnh Duy T cùng vật chứng thu giữ là 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa 04 viên nén mùa hồng hình tròn đồng dạng có tổng khối lượng 0,39 gam.

- Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong kiểm tra vật chứng và niêm phong lại; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 1557 ngày 21/9/2021của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của anh Lò Văn T, sinh năm 1990, HKTT: Bản B, xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La , tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với kết quả điều tra.

Từ các căn cứ nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 0,39 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng của bị cáo Trịnh Duy T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Trịnh Duy T có hành vi tàng trữ 0,39 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, khối lượng ma túy bị thu giữ trong vụ án là 0,39 gam thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm và thuộc trường hợp nghiêm trọng.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà Nước về chất ma túy, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn và các tội phạm khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội . Do đó cần co mưc hinh phat nghiêm khăc nhăm răn đe giao duc đôi vơi bi cao , trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trịnh Duy T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, xét việc áp dụng hình phạt bổ sung không có khả năng thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ:

Bị cáo Trịnh Duy T khai mua của một người nam giới không biết họ tên, đia chi cụ thể ở đâu vào ngày 19/9/2021, tại khu vực bản tổ 01, phường Chiềng Sinh, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. Ngoài lời khai của bị cáo không còn chứng cứ nào khác chứng minh. Do đó buộc bị cáo Trịnh Duy T phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy bị thu giữ.

[8] Vật chứng vụ án:

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; Mảnh giấy bạc màu trắng; Mẫu lưu T1=0,19 gam, là vật Nhà Nước cấm lưu hành,vật không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo Trịnh Duy T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Trịnh Duy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Trịnh Duy T 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam (ngày20/9/2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2.Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) chiếc phong bì công văn của Công an thành phố Sơn La đã niêm phong, mặt trước ghi: “ Vật chứng lưu kho vụ Trịnh Duy T, sinh năm 1995 - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 20/9/2021. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; Mảnh giấy bạc màu trắng; Mẫu lưu T1=0,19 gam”, mặt sau phong bì trên giấy dán giấy niêm phong số 040000 có ghi " Cơ quan CSĐT - CATP. Sơn La hồi 11 giờ 40 phút ngày 20/9/2021 tại CATP Sơn La", tại phần giáp lai của giấy dán niêm phong và phong bì có chữ ký, dòng ghi họ tên của thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt và 01 hình dấu tròn đỏ của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/11/2021giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).

3. Về án phí:Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14:

Buộc bị cáo Trịnh Duy T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Trịnh Duy T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 28/12/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về