Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 33/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 33/2024/HS-ST NGÀY 24/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24/4/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2024/TLST-HS ngày 29/3/2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2024/QĐXXST-HS ngày 12/4/2024 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Giàng A X; Sinh năm 1997 tại xã H, huyện S, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú: Bản T, xã Mường T, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hoá: 1/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Giàng A L (sinh năm 1973) và bà Thào Thị X (sinh năm 1977); có vợ là Mùa Thị D (sinh năm 2001) và có 03 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo chưa bị kết án, chưa bị xử phạt, xử lý hành chính; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/12/2023 đến ngày 31/12/2023, tạm giam từ 31/12/2023 đến nay, có mặt.

2. Bị cáo Lò Văn H; Sinh năm 1983 tại xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; Trình độ văn hoá: 5/12; bị cáo là Đảng viên, đình chỉ sinh hoạt Đảng từ ngày 25/12/2023; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn H (đã chết) và bà Mào Thị S (sinh năm 1956) có vợ là Lò Thị Ư (sinh năm 1984) và có 02 con; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 12/4/2009 bị Công an huyện Mường Nhé xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Hủy hoại tài sản” theo Quyết định số 12/XPHC, phạt tiền 500.000 đồng (Bị cáo đã nộp xong tiền phạt, đã được xóa tiền sự); Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/12/2023 đến ngày 31/12/2023, tạm giam từ 31/12/2023 đến nay, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H: Ông Lý A Ch, trợ giúp viên pháp lý của trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Lò Văn Đ, sinh năm: 1987, nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên, có mặt.

Chị Quàng Thị Th, sinh năm 1993, nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện M, tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ, ngày 22/12/2023 Lò Văn H cầm theo 100.000 đồng đi bộ từ nhà đến nhà Lò Văn Đ (là người cùng bản) để mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen trắng, biển kiểm soát 27B1-428.xx để đi chặt cây chuối, Đ đồng ý cho H mượn, sau đó H một mình điều khiển xe mô tô đi xuống bản T, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên mục đích để tìm mua Heroine sử dụng. Khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày, H đi đến bản T thì thấy Giàng A X đang đứng một mình ở cổng nhà của bố mẹ của X, H dừng lại nói chuyện, trao đổi và nhờ X đi tìm mua Heroine về cùng nhau sử dụng chung, X đồng ý, sau đó H đưa cho X 100.000 đồng và chiếc xe mô tô của H mượn của Đ, X nhận lấy tiền rồi điều khiển xe mô tô của H đi vào trong bản T, xã M để tìm mua Heroine, còn H vào trong nhà bố mẹ của X ngồi chờ. Khi X đi được khoảng 02 km thì có gặp một người phụ nữ dân tộc Hoa (không quen biết và mua được của người phụ nữ này 01 gói Heroine, được gói trong mảnh nilon màu xanh, có khối lượng 0,29 gam, với giá tiền 100.000 đồng, mua bán xong người phụ nữ đó đi đâu X không biết, còn X cầm gói Heroine vừa mua được trong tay trái rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Đến 13 giờ 40 phút cùng ngày 22/12/2023, khi X đang trên đường đi về thì bị tổ công tác Công an huyện Mường Nhé kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ gói Heroine và chiếc xe mô tô trên.

Sau khi bắt giữ Giàng A X, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Nhé đã tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp và ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Lò Văn H. Các bị cáo X và H khai nhận mục đích mua ma túy về để sử dụng cho bản thân.

Kết luận giám định số 110/KL-KTHS ngày 28/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Vật chứng thu giữ của Giàng A X có khối lượng là 0,29 gam chất bột màu trắng là chất ma túy, loại Heroine;

Ngày 18/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Nhé đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen trắng, biển kiểm soát 27B1-428.xx (kèm chìa khóa xe máy) cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Quàng Thị Th.

Cáo trạng số 18/CT-VKS-MN ngày 28/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Giàng A X và Lò Văn H để xét xử về tội: Tàng trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng truy tố, phần luận tội đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Giàng A X và Lò Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng tù; đề nghị xử phạt bị cáo Giàng A X từ 01 năm đến 01 năm 05 tháng tù; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi đã trích giám định là 0,21 gam Heroine và 01 mảnh nilon màu xanh và 01 phong bì niêm phong vật chứng; Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H nhất trí với Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát, nhất trí với luận tội về tội danh; điều khoản áp dụng; hình phạt bổ sung; xử lý vật chứng vụ án và án phí; phần hình phạt chính người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã tóm tắt ở trên và đúng như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Các bị cáo không tranh luận gì với luận tội của Viện kiểm sát. Lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Đ, chị Quàng Thị Th trình bày: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen trắng, biển kiểm soát 27B1-428.xx là của chị Thư. Anh Đ mượn xe mô tô này của em dâu là Quàng Thị Th từ năm 2021 để làm phương tiện đi lại, anh Đ, chị Th không biết gì về việc bị cáo đã dùng chiếc xe này để đi mua ma túy, chị Th đã nhận lại chiếc xe mô trên và không đề nghị gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét hành vi phạm tội và những căn cứ xác định tội danh của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như sau: Ngày 22/12/2023 bị cáo Lò Văn H mượn xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen trắng, biển kiểm soát 27B1-428.xx của anh Lò Văn Đ (người cùng bản) một mình đi đến bản T, xã M, huyện M tìm mua ma túy về sử dụng, đi đến bản T, bị cáo H có gặp Giàng A X và nhờ X đi mua ma túy giúp, nếu mua được thì về cùng nhau sử dụng vì cả hai đều nghiện ma túy. Thấy X đồng ý với ý kiến của H, H đưa cho X 100.000 đồng và chiếc xe mô tô (bị cáo H mượn của Đ) để bị cáo X đi tìm mua ma túy. Bi cáo X cầm tiền, điều khiển xe mô tô đi được khoảng 2 km thì gặp một người phụ nữ dân tộc Hoa lạ mặt và mua được của bà ta 0,29 gam Heroine với giá tiền 100.000 đồng. Mua bán xong người phụ nữ đi đâu X không biết, còn X cất giấu số Heroine mua được ở tay trái rồi điều khiển xe mô tô quay về nhà, vào khoảng 13 giờ 40 phút cùng ngày khi X đang điều khiển xe mô tô trong khu vực bản T, xã M, huyện M thì bị phát hiện bắt quả tang và bị thu giữ 0,29 gam Heroine. Các bị cáo H và X khai nhận mục đích mua Heroine về để sử dụng cho bản thân vì các bị cáo nghiện ma túy.

Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai và các bản cung có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định, kết luận điều tra, cáo trạng truy tố và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ để xác định hành vi tàng trữ trái phép 0,29 gam Heroine với mục đích để sử dụng của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố các bị cáo Giàng A X và Lò Văn H để xét xử về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

Đây là vụ án đồng phạm về ma túy, các bị cáo đều thực hiện hành vi phạm tội với tư cách là người thực hành. Trong đó bị cáo H là người nảy sinh ý định đi mua ma túy về để cùng nhau sử dụng, là người đưa tiền cho bị cáo X mua ma túy về để cùng sử dụng nên cần phải có mức hình phạt cao hơn để đảm bảo tính răn đe. Đối với bị cáo X mặc dù không chủ động nhưng khi được bị cáo H đưa tiền thì trực tiếp đi mua ma túy để cùng sử dụng, do vậy cũng cần có mức hình phạt tương xứng.

[3] Xét tính chất vụ án: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo Lò Văn H là người có nhân thân xấu, ngày 12/4/2009 bị Công an huyện Mường Nhé xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Hủy hoại tài sản” theo Quyết định số 12/XPHC, phạt tiền 500.000 đồng, bị cáo đã nộp xong tiền phạt và đã được xóa tiền sự. Bị cáo Giàng A X là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về áp dụng hình phạt đối với các bị cáo:

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy cần xử phạt các bị cáo nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Lò Văn H từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, bị cáo Giàng A X từ 01 năm đến 01 năm 05 tháng tù. Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên cần xử phạt bị cáo như đề nghị của viện kiểm sát và người bào chữa.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo còn có thể chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, xét thấy hoàn cảnh kinh tế gia đình của các bị cáo khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, xác minh tại nơi ở không có tài sản gì có giá trị nên hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và người bào chữa không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[7] Đối với người phụ nữ dân tộc Hoa đã bán ma túy cho bị cáo X, do bị cáo không biết tên tuổi địa chỉ của người này, Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên không có cơ sở để xử lý.

[8] Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lò Văn Đ và chị Quàng Thị Th: Trong quá trình giải quyết vụ án đã làm rõ anh Đ và chị Th không biết gì về việc các bị cáo H và X dùng chiếc xe mô tô của chị Th để đi mua ma túy, do vậy không xem xét về trách nhiệm hình sự đối với anh Đ và chị Th trong vụ án này.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đối với 0,21 gam Heroine còn lại sau khi đã trích giám định (Khối lượng heroine thu giữ là 0,29 gam, đã trích toàn bộ gửi giám định, hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 0,21 gam Heroine) 01 mảnh nilon màu xanh và 01 phong bì niêm phong vật chứng, xét thấy đây là vật mà Nhà nước cấm tàng trữ, vật bị cáo dùng cất giấu ma túy nên căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, màu đen trắng, biển kiểm soát 27B1-428.xx (kèm chìa khóa xe máy), quá trình điều tra làm rõ xe mô tô thuộc quyền sở hữu của chị Quàng Thị Th, chị Th cho anh Đ mượn, sau đó anh Đ cho bị cáo H mượn xe mô tô này, anh Đ và chị Th không biết gì về việc bị cáo H dùng xe mô tô này đi mua ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp chị Th là đúng quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí:

Xét thấy các bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí nên cần căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[11] Về quyền kháng cáo:

Theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, các bị cáo, người liên quan được quyền kháng cáo bản án.

[12] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mường Nhé, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bào chữa. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người bào chữa đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự:

1.Tuyên bố các bị cáo Giàng A X và Lò Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Xử phạt bị cáo Giàng A X 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 22/12/2023.

Xử phạt bị cáo Lò Văn H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 22/12/2023.

3. Về vật chứng vụ án:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ 0,21 gam heroine còn lại sau khi đã trích giám định, 01 mảnh nilon màu xanh (thu giữ của bị cáo Giàng A X) và 01 phong bì niêm phong vật chứng. Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/3/2024 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/4/2024). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/4/2024). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 33/2024/HS-ST

Số hiệu:33/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về