Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 33/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường Ủy ban nhân dân xã H, huyện Y, tỉnh P, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2022, theo Q định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Q, sinh ngày 26/9/1984; nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện L, tỉnh P; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1965; đã từng có vợ là Đỗ Thùy G, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và 02 con (đều sinh năm 2016);

Tiền án: 01. Tại Bản án số 77/2018/HSST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 17/9/2020, Q chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống. Tính đến ngày 19/4/2022, Q chưa được xóa án tích.

Tiền sự: 01. Tại Quyết định số 103/QĐ-UBND ngày 20/4/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh Pra Q định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, đến ngày 20/7/2021 đã chấp hành xong. Tính đến ngày 19/4/2022, Q chưa được xóa tiền sự.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19 tháng 4 năm 2022 cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: Ông Đỗ Viết C, sinh năm 1980.

Nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện L, tỉnh P (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1954.

Nơi cư trú: Thôn 1, xã H, huyện L, tỉnh P(có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Q là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 19/4/2022, Q đang ở Nhà văn hoá 1, xã H, huyện L, tỉnh Pthì gặp người nam giới tên là H khoảng hơn 50 tuổi (Q không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) là bạn nghiện ma túy với Q. Tại đây, H rủ Q đến khu vực xã T, huyện L, thành phố N để tìm mua ma túy cùng nhau sử dụng thì Q đồng ý. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Dream không rõ biển kiểm soát chở Q đến khu vực xã T, huyện L, thành phố N thì Q xuống xe đứng đợi, còn H một mình đi mua ma túy. Khoảng 05 phút sau, H quay lại nói đã mua được ma túy, rồi điều khiển xe mô tô chở Q về thôn 1, xã H, huyện L, tỉnh Pđể tìm nơi sử dụng ma túy. Trên đường đi, H đưa cho Q 02 gói nhỏ ma túy Heroine. Q cầm 02 gói nhỏ ma túy bằng tay phải. Khi đi đến đoạn đường liên thôn thuộc thôn 1 xã H, huyện L, tỉnh Pthì bị Tổ công tác Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Q hoảng sợ vứt 02 gói ma túy trên tay xuống đất cạnh vị trí Q đứng, còn H phóng xe mô tô bỏ chạy. Tổ công tác Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Q, thu giữ tang vật gồm: Thu tại mặt đất cạnh vị trí bắt giữ Q 02 gói nhỏ bên ngoài bọc nilon, bên trong bọc giấy, trong cùng chứa chất bột cục màu trắng (Q khai nhận đây là ma túy Heroine của Q với mục đích để sử dụng cho bản thân), niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1, thu giữ 01 bật lửa ga màu đỏ đã cũ tại túi quần phía trước bên phải của Q.

Tại Kết luận giám định số 1095/KL-KTHS ngày 23 tháng 4 năm 2022, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2127gam, loại Heroine.

Tại Cáo trạng số 34/CT-VKSYL ngày 14/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Trần Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên Q định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Q từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19 tháng 4 năm 2022; về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu, tiêu hủy mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1476gam Heroine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 bật lửa ga màu đỏ không còn giá trị sử dụng.

Bị cáo Trần Q không bào chữa, không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người làm chứng, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp. [2]. Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Trần Q tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ được và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ chứng cứ khách quan để kết luận: Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 19/4/2022, tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn 1, xã H, huyện L, tỉnh P, Trần Q đang có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy, theo kết luận giám định là Heroine có tổng khối lượng bằng 0,2127gam để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ Công tác Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Trần Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 249 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội, gây nên sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý đang là tệ nạn xã hội có chiều hướng ngày càng gia tăng, từ tội phạm về ma tuý sẽ dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật khác. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm H bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm.

[3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Q là người có nhân thân xấu. Ngày 20/4/2021, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H, huyện L, tỉnh P quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, đến ngày 20/7/2021, Q đã chấp hành xong. Tính đến ngày phạm tội ngày 19/4/2022, Q chưa được xóa tiền sự. Về tiền án: Bị cáo Q có 01 tiền án, Tại Bản án số 177/2018/HSST ngày 29/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo Q chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương ngày 17/9/2020, đến nay chưa được xóa án tích nên lần phạm tội ngày 19/4/2022 được xác định là “Tái phạm”. Do đó, bị cáo Trần Q phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Mặc dù đã bị Tòa án xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ra Q định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã H bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải lên một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, có như vậy mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để phạt tiền hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản đối với bị cáo.

[5]. Đối với người nam giới tên là H mà Q khai đã đi cùng người này tìm mua ma túy. Quá trình điều tra xác định người này tên là Đặng Văn H, sinh năm 1962; nơi cư trú: Thôn 4, xã C, huyện L, tỉnh P. Cơ quan điều tra Công an huyện Y, tỉnh P đã nhiều lần triệu tập H đến làm việc nhưng H đã đi khỏi địa phương, đi đâu làm gì không ai rõ nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ xử lý sau.

[6]. Đối với người bán ma túy cho H do Q không trực tiếp đi mua ma túy nên không xác định được người bán ma túy cho H là ai, ở đâu nên cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh.

[7]. Về xử lý vật chứng: Đối với bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1476gam Heroine còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ đã qua sử dụng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8]. Về án phí: Bị cáo Trần Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đối với bị cáo là có căn cứ đúng pháp luật sẽ được Hội đồng xét xử xem xét Q định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Trần Q 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 19/4/2022).

3. Về vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy bao gói niêm phong mẫu vật ký hiệu A1 = 0,1476gam Heroine còn lại sau giám định.

Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng của Q. (đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/8/2022).

4. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí toà án, bị cáo Trần Q phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2022/HS-ST

Số hiệu:33/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về