Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2021/HS-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 12/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2021, đối với:

1.Bị cáo: Phạm Văn H. Sinh năm: 1983. Giới tính: Nam. ĐKHKTT: Tập thể X, thị trấn Y, Huyện G, H. Chỗ ở: Số 151 L, phường C, quận K, H. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Phạm Văn N (đã chết). Họ tên mẹ: Lê Thị S. Sinh năm: 1952. Gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư. Vợ: Nguyễn Mai P. Sinh năm: 1985. Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2009.

Danh chỉ bản số 476 do Công an quận Hoàn Kiếm lập ngày 19/10/2020 Tiền án, tiền sự: 01 tiền án - Ngày 16/5/2019, Tòa án nhân dân quận Đ xử phạt 15 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/01/2019 đến ngày 11/01/2019. Ngày 14/12/2020, Tòa án ND Huyện Gia Lâm ra Quyết định thi hành án phạt tù, hiện Phạm Văn H chưa thi hành án, AS: 98/HSST - án tích chưa được xóa.

Tạm giữ: 12/10/2020 - Tạm giam: 21/10/2020 Hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố H.

2. Bị cáo: Nguyễn Văn M. Sinh năm: 1995. Giới tính: Nam. ĐKHKTT: xã A, Huyện T, tỉnh B. Chỗ ở: Số 12 ngõ 445/68 K, tổ 2 phường Y, quận C, H. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Họ tên cha: Nguyễn Văn H. Sinh năm: 1969. Họ tên mẹ: Trần Thị N. Sinh năm: 1975. Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Danh chỉ bản số 459 do Công an quận Hoàn Kiếm lập ngày 17/10/2020 Tiền án, tiền sự: Không Tạm giữ: 12/10/2020 - Tạm giam: 21/10/2020 Hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố H.

(Các Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị Q. Sinh năm: 1997. ĐKHKTT: xã M, Huyện B, tỉnh L. Nơi ở hiện tại: Số 12, ngõ 445/68 K, tổ 2 phường Y, quận C, H.

(Chị Q có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/10/2020, tổ công tác công an phường C phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an quận K làm nhiệm vụ trên địa bàn. Khi đi đến trước cửa số 151 L, phường C, quận K, H phát hiện Nguyễn Văn M điều khiển xe máy Honda Wave màu xanh ngọc BKS:12B1-129.87 có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, M lấy từ trong quần lót ra 01 gói nilông màu trắng, bên ngoài dán băng dính đen có kích thước khoảng 2x2cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng. M khai tinh thể màu trắng là ma túy “đá” vừa mua của một người tên H ở 151 L, K, H với giá 300.000 đồng, cất giấu để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, đưa M cùng tang vật về trụ sở làm việc. Ngoài ra còn thu giữ của Nguyễn Văn M: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh ngọc, BKS: 12B1 - 129.87, SM: JA39E - 0789108, SK: RLHJA3905HY808945 và 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen, kèm sim. Xét nghiệm Nguyễn Văn M dương tính với ma túy loại Methamphetamine.

Căn cứ lời khai của M, ngày 11/10/2020, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp nhà của Phạm Văn H (sinh năm: 1983, ĐKHKTT: Tập thể X, thị trấn Y, Huyện G, H) tại số 151 L, phường C, quận K, Hà Nội phát hiện thu giữ: Tại tủ quần áo tầng 01 thu giữ bên trong túi cạnh sườn bên phải chiếc áo khoác màu đen 01 túi nilông kích thước khoảng 2,5x2,5cm bên trong chứa tinh thể màu trắng; Tại ngăn giường ngủ tầng 02 thu giữ 01 túi nilông kích thước 4x6,5cm bên trong có 01 viên nén màu vàng nhạt trên có chữ “No hear”; Tại ngăn bàn kính ở tầng 02 thu giữ 01 ống thủy tinh hình cong (kiểu lưỡi câu) chiều dài đường cong khoảng 23cm và 01 vỏ túi nilông kích thước khoảng 2x2cm (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, kèm sim; 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. Xét nghiệm Phạm Văn H dương tính với ma túy loại Methamphetamine và MOP. Ngày 13/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận K đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Văn H về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại Kết luận giám định số 8936/KLGĐ-PC09 ngày 19/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận: Tang vật thu giữ của Nguyễn Văn M gồm tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông màu trắng có khối lượng 0,329 gam là ma túy loại Methamphetamine.

Tại Kết luận giám định số 8939/KLGĐ-PC09 ngày 19/10/2020 của Phòng kỹ thuận hình sự - Công an TP H kết luận: Tang vật thu giữ của Phạm Văn H gồm 01 viên nén màu vàng nhạt có chữ “No hear” có khối lượng 0,381 gam là ma túy loại MDMA; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông khối lượng 0,116 gam là ma túy loại Methamphetamine; 01 ống thủy tinh cong một đầu và 01 túi nilông đều có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn M khai: Bản thân M nghiện ma túy từ tháng 07 năm 2020. Khoảng 14h00 ngày 11/10/2020, M mượn xe máy của bạn gái là chị Hoàng Thị Q (sinh năm: 1997, ĐKHKTT: xã M, Huyện B, tỉnh L) đi đến 151 L, phường C, K, H để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, M gọi điện cho H hỏi mua 300.000 đồng tiền ma túy “đá”, H đồng ý và bảo M đợi trước cửa. Khoảng 14h30’ cùng ngày H đi bộ ra chỗ M và đưa cho M 01 gói nilông màu trắng chứa ma túy “đá”. Mua được ma túy, M giấu vào bên trong quần lót đang mặc rồi đi về. Khi đi ra đến ngoài đường trước cửa số 151 L thì bị kiểm tra, bắt quả tang như đã nêu trên. Chiếc xe máy Honda Wave BKS 12B1-12987 và điện thoại di động Iphone 7 màu đen đều là tài sản của chị Hoàng Thị Q, M mượn để sử dụng, không cho chị Q biết M sử dụng vào việc liên quan đến ma túy.

Tại cơ quan điều tra, ban đầu Phạm Văn H khai: khoảng 15h00 ngày 09/10/2020 khi đang đi lang thang tại khu vực G, phường C, quận K , H thì có 01 người đàn ông (không rõ tên tuổi, địa chỉ) hỏi H mua “đồ” không tức là mua ma túy nên H đã đồng ý mua 02 túi nilông chứa ma túy “đá”, mỗi túi kích thước khoảng 2,5x2,5cm với giá mỗi túi là 200.000 đồng và 01 túi nilon kích thước 4x6,5cm chứa viên nén màu vàng nhạt có dòng chữ “No hear” là ma túy “kẹo” với giá 100.000 đồng. Sau đó, H mang số ma túy vừa mua về nhà cất giấu để chờ bán kiếm lời. H dự định sẽ mang số ma túy trên về bán với giá 300.000 đồng một túi ma túy “đá” và 200.000 đồng cho ma túy “kẹo”. Khoảng 14h00’ ngày 11/10/2020, bạn xã hội tên M gọi điện cho H qua số điện thoại 0395.771.200 đề hỏi mua hộ 300.000 đồng ma túy “đá”. H đồng ý và bảo M đến nhà H tại số 151 Lê Duẩn, phường Cửa Nam, Hoàn Kiếm, Hà Nội để mua bán ma túy. Khoảng 20 phút sau thì M đến đầu ngõ nhà H, H dán băng dính đen quanh 01 gói nilông màu trắng kích thước khoảng 2x2cm bên trong chứa ma túy “đá” và mang ra bán cho M với giá 300.000 đồng, thu lời 100.000 đồng. Trong quá trình điều tra khám xét nơi ở, H tự nguyện khai nhận còn cất giấu 01 túi ma túy “đá” trong túi cạnh sườn bên phải áo khoác màu đen để bên trong tủ quần áo của H tại tầng 01 và 01 túi nilon đựng viên ma túy “kẹo” tại ngăn giường ngủ tầng 02 mục đích để có ai mua thì sẽ bán. Cơ quan điều tra khám xét nơi ở và thu giữ, niêm phong tang vật như đã nêu trên. H khai thêm quen biết M được khoảng 3 tháng, đây là lần đầu tiên H bán ma túy cho M thì bị phát hiện. Ngoài ra H không bán ma túy cho ai khác. Đến ngày 21/10/2020, H thay đổi lời khai và khai: H cất giấu ma túy trong nhà nhằm mục đích sử dụng. Khoảng 14h30’ ngày 11/10/2020, M gọi điện thoại nhờ H mua hộ ma túy “đá”, do có sẵn ma túy trong nhà nên H đã đồng ý bán cho M 01 túi ma túy “đá” với giá 300.000 đồng. Số ma túy công an thu giữ trong quá trình khám xét tại nhà ở của H là H cất giấu nhằm mục đích sử dụng. 01 ống thủy tinh cong một đầu thu giữ tại nhà H là dụng cụ H dùng để sử dụng ma túy. Chiếc điện thoại Iphone 11 màu đỏ là tài sản của H sử dụng để liên lạc gia đình bạn bè và liên lạc bán ma túy cho Nguyễn Văn M. Số tiền 200.000 đồng là tiền M trả cho H để mua ma túy.

Căn cứ vào các tài liệu điều tra ban đầu, lời khai của Nguyễn Văn M và lời khai nhận tội của Phạm Văn H nên ngày 19/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Văn H về tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự và bị can Nguyễn Văn M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ Luật hình sự.

Quá trình điều tra đủ căn cứ kết luận Phạm Văn H đã bán 01 gói ma túy loại Methamphetamin, khối lượng 0,329gam cho Nguyễn Văn M, số ma túy H cất giấu tại nơi ở gồm 0,381 gam ma túy MDMA và 0,116 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng, kết quả xét nghiệm H dương tính với ma túy loại Methamphetamine, dụng cụ thu giữ tại nơi ở của H 01 ống thủy tinh hình cong (kiểu lưỡi câu) chiều dài đường cong khoảng 23cm và 01 vỏ túi nilông kích thước khoảng 2x2cm đều dính ma túy loại Methamphetamine nên ngày 28/12/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định bổ sung Quyết định khởi tố bị can đối với Phạm Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

Về đối tượng bán ma túy cho Phạm Văn H, do H không biết rõ địa chỉ nơi ở, Cơ quan điều tra đã dẫn giải H đến nơi mua ma túy nhưng không xác định được người đã bán ma túy cho H. Do đó, cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu xanh ngọc, BKS: 12B1 - 129.87, SM: JA39E - 0789108, SK: RLHJA3905HY808945, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Hoàng Thị Quy (sinh năm: 1997, ĐKHKTT: xã Mông Ân, Huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn). Ngày 11/10/2020, chị Quy cho M mượn xe để đi lại, không biết M sử dụng để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra đã trả chiếc xe máy trên cho chị Quy, chị Quy nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 25 tháng 01 năm 2021 đã truy tố Phạm Văn H tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự, đã truy tố Nguyễn Văn M tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Các Bị cáo khai nhận như khai tại Cơ quan điều tra và công nhận nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo Phạm Văn H tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 và tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự là đúng, đã truy tố Nguyễn Văn M tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự là đúng.

Bị cáo M khai báo ngày 11/10/2020 do điện thoại của bị cáo hỏng nên bị cáo đã mượn điện thoại của chị Quy.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Quy trình bày thống nhất với lời khai của bị cáo M liên quan đến chiếc điện thoại Iphone7 màu đen, chị đề nghị HĐXX tuyên trả chiếc điện thoại chị đã cho bị cáo mượn tuy nhiên chị Quy không giao nộp được tài liệu chứng minh về việc sở hữu cũng như không khai báo được các số điện thoại gọi đi trong danh sách các cuộc gọi lưu tại máy.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ quyền công tố sau khi phân tích tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng đã ban hành, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

+ bị cáo Phạm Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 điểm c Điều 249, khoản 1 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 55, 56 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù đối với tội Mua bán trái phép chất ma túy, từ 24 tháng đến 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp hình phạt với 15 tháng tù tại bản án của Tòa án ND quận Đống Đa xử phạt bị cáo với mức án từ 06 năm 3 tháng tháng đến 07 năm 03 tháng tù. Không áp dụng hình phạt phụ là phạt tiền vì bị cáo nghề nghiệp không ổn định. Đề nghị tịch thu sung công quỹ tài sản đã thu giữ của bị cáo là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ đã qua sử dụng và số tiền 200.000 đồng của bị cáo do phạm tội mà có. Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy, sim điện thoại 0904998538, 01 ống thủy tinh cong một đầu và 01 túi ny lông đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

+ bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt phụ là phạt tiền vì bị cáo nghề nghiệp không ổn định. Đề nghị tịch thu sung công quỹ tài sản đã thu giữ của bị cáo là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 màu đen đã qua sử dụng. Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy, sim điện thoại 0395771200 đã thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng Nghị án, các bị cáo được nói lời sau cùng, bị cáo H trình bày bản thân nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, bị cáo M trình bày bản thân nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, xin hứa không tái phạm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của các bị cáo phù hợp lời khai người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/10/2020, Nguyễn Văn M có hành vi tàng trữ trái phép 0,329 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị kiểm tra bắt quả tang tại trước cửa số nhà 151 Lê Duẩn, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. M khai nhận số ma túy trên M vừa mua của Phạm Văn H.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn H thu giữ 0,381 gam ma túy MDMA và 0,116 gam ma túy Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng.

Như vậy, Nguyễn Văn M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Phạm Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì hám lợi, nghiện ngập nên vẫn cố ý thực hiện.

[3] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Các Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Bị cáo H bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm.

[5] Về quyết định hình phạt: Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo nhằm bảo vệ các quan hệ xã hội bị các hành vi vi phạm pháp luật xâm hại, đảm bảo tính công minh của pháp luật; cách ly người phạm tội với môi trường xã hội, phòng ngừa, ngăn chặn không để họ tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; răn đe những người có ý định phạm tội góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự của đất nước. Hơn nữa, bị cáo được giáo dục cải tạo, giúp bị cáo nhận thức rõ tội lỗi, hành vi vi phạm pháp luật, khắc phục, sửa chữa những thói quen, hành vi của bản thân không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội; ăn năn, hối cải, tích cực lao động, học tập, cải tạo, xây dựng nhận thức, tình cảm đúng đắn, định hướng được các giá trị, chuẩn mực về đạo đức, lối sống của công dân để khi trở về địa phương, họ sẽ trở thành những công dân có ích cho xã hội.

[5.1] Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt phụ bổ sung: Các Bị cáo nghề nghiệp không ổn định nên không áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về Biện pháp tư pháp: Do cả hai điện thoại đều dùng vào việc liên lạc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo M và chị Quy về việc cho mượn điện thoại vào ngày 11/10/2020 nhưng lịch sử các cuộc gọi giữa bị cáo M và bị cáo H là từ ngày 08/10/2020. Hơn nữa chị Quy không khai được danh sách cuộc gọi của chị bằng chiếc điện thoại đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ.

- Tịch thu sung công quỹ tài sản đã thu giữ của các các bị cáo: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu đỏ, 01 điện thoại di động Iphone 7 màu đen đều đã qua sử dụng, số tiền 200.000 đồng do bị cáo H phạm tội mà có.

-Tịch thu tiêu hủy: số ma túy đã thu giữ, sim điện thoại 0904998538, sim điện thoại 0395771200 và 01 ống thủy tinh cong một đầu, 01 túi ny lông đã qua sử dụng.

[8] Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Án phí hình sự: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố: PHẠM VĂN H phạm Tội Mua bán trái phép chất ma tuý và Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; NGUYỄN VĂN M phạm Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng: Điều 251 khoản 1; khoản 1 Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật Hình sự; Xử phạt: PHẠM VĂN H 38 (BA MƯƠI TÁM) tháng tù.

3. Áp dụng: Điều 249 khoản 1 điểm c; khoản 1 Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ Luật Hình sự; Xử phạt: PHẠM VĂN H 24 (HAI MƯƠI BỐN) tháng tù.

4. Áp dụng: Điều 55, Điều 56 của Bộ Luật Hình sự; Tổng hợp hình phạt hai tội trong vụ án và hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2019/HSST ngày 16/5/2019 do Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử.

Buộc bị cáo PHẠM VĂN H phải chấp hành hình phạt chung là 06 (SÁU) năm 05 (NĂM) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2020 được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 04/01/2019 đến ngày 11/01/2019 của Bản án hình sự sơ thẩm số 98/2019/HSST ngày 16/5/2019 do Tòa án nhân dân quận Đống Đa xét xử.

5. Áp dụng: Điều 249 khoản 1 điểm c; khoản 1 Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật Hình sự; Xử phạt: NGUYỄN VĂN M 20 (HAI MƯƠI) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/10/2020.

6. Áp dụng:

- Điều 106, 135, 136, 331, 333 của Bộ Luật tố tụng hình sự 2015;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

7. Biện pháp tư pháp:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài mép niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn M, giám định viên Trần Ngọc Chinh và cán bộ công an phường Phạm Quang Anh và hình dấu đỏ của Công an phường Cửa Nam, bên trong có 01 túi nilong màu trắng (kích thước 2x2cm) bên ngoài dán băng dính đen có khối lượng thu giữ ban đầu là 0,329 gam ma túy Methamphetamin PC09-CAHN trích mẫu 0,043 gam còn lại 0,286 gam;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài mép niêm phong có chữ ký của Phạm Văn H, giám định viên Phạm Đình Đạo và cán bộ công an phường Phạm Quang Anh và hình dấu đỏ của Công an phường Cửa Nam, bên trong có 01 túi nilong màu trắng (kích thước 4x6,5cm) chứa một viên nén màu vàng nhạt trên có chữ “No hear” khối lượng thu giữ ban đầu là 0,381 gam ma túy MDMA PC09- CAHN trích mẫu 0,165 gam còn lại 0,216 gam; 01 túi nilong kích thước 2,5x2,5cm bên trong chứa 0,116 gam ma túy Methamphetamin PC09-CAHN trích mẫu 0,029 gam còn lại 0,087 gam;

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 sim điện thoại 0904998538, 01 sim điện thoại 0395771200 và 01 ống thủy tinh cong một đầu và 01 túi ny lông đã qua sử dụng..

+ Tịch thu xung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 7 màu đen, 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 11 màu đỏ đều đã qua sử dụng.

Số vật chứng trên hiện giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 24/02/2021.

+ Tịch thu xung công quỹ Nhà nước: Số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Hiện số tiền đang được tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước theo Giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm ngày 04/3/2021.

8. Án phí: Mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

9. Quyền kháng cáo: Các Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày đối với phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2021/HS-ST

Số hiệu:33/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về