Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 33/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 33/2021/HSST NGÀY 16/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16/4/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2021/TLST-HS ngày25 tháng02năm2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2021đối với bị cáo:

Trần T. Sinh năm 1979, tại Gia Lai; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn 2, xã AP, thành phố P, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở: Tổ 7, phường TL, thành phố P, tỉnh Gia Lai;trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: làm nông; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần B (đã chết) và bà Tô Thị C - sinh năm 1934; bị cáo có vợ là Vợ: Nguyễn Thị Diễm H - Sinh năm 1980, bị cáo chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 13/11/2020 đến ngày 22/11/2020, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giam cho đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Gia Lai. Có mặt.

Những người tham gia tố tụng:

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Diễm H, sinh năm 1980; địa chỉ: Tổ 7, phường TL, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

* Người làm chứng: Th, sinh năm 1991; địa chỉ: Làng K, xã CA, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần T là người có sử dụng ma túy. Thông qua mối quan hệ xã hội, T có được số điện thoại của người đàn ông tên Th (không rõ nhân thân, lai lịch) là người có bán ma túy. Vào khoảng 17 giờ ngày 12/11/2020, T gọi điện thoại cho Th để hỏi mua ma túy thì Th đồng ý và hẹn gặp nhau tại khu vực cổng chào xã Ia Sao, huyện IG, tỉnh Gia Lai. Sau đó, T đón xe ôm (không rõ người điều khiển và biển số xe)đi từ thành phố P đến khu vực cổng chào xã Ia Sao, huyện IG, tỉnh Gia Lai, để gặp và mua của Th 01gói nilon ma túy (loại Methamphetamine) với giá 500.000 đồng; Th cho T thêm 01 ống thủy tinh uốn cong một đầu để sử dụng ma túy. T cất số ma túy đã mua được vào trong túi áo khoác rồi đi xe ôm về nhà thuê số 36 đường MTBưởi, Tổ 7, phường TL, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Tại đây, T mở gói ma túy ra lấy một ít cho vào dụng cụ để sử dụng; số còn lại, T cất vào túi áo khoác với mục đích để sử dụng dần. Đến 10 giờ ngày 13/11/2020, khi T đang cất giấu ma túy trong người và đi bộ trên đường thuộclàng BB, xã C, thành phố P thì bị lực lượng điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang;thu giữ trong túi áo khoác của T 01 gói nilon bên trong có chứa chất rắn tinh thể màu trắng (đã niêm phong theo quy định). Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của T, gồm: 01điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim số, mặt sau sim có dãy số 89840.20001.09692.26810; 01 ống thủy tinh uốn cong một đầu và 92.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng 17 giờ ngày 12/11/2020, tại khu vực cổng chào xã Ia Sao, huyện IG, tỉnh Gia Lai, Trần T đã mua 01 gói ma túy (loại Methamphetamine) với giá 500.000 đồng của 01 người đàn ông tên Th (không rõ nhân thân, lai lịch) và được Th cho thêm 01 ống thủy tinh uốn cong một đầu để sử dụng ma túy. Sau đó, T mangsố ma túy này về nhà thuê ở số 36 đường MTBưởi, Tổ 7, phường TL, thành phố P, tỉnh Gia Lai và đã lấy một ít ma túy ra sử dụng; số còn lại, T cấtgiấu vào túi áo khoác để sử dụng dần. Đến 10 giờ ngày 13/11/2020, khi khi T đang đi bộ trên đường thuộc làng BB, xã C, thành phố P, thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy - Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật. Cơ quan điều tra còn thu giữ: 01điện thoại di động hiệu Nokia màu đen kèm sim số mà T đã dùng liên lạc để mua ma túy, 01 ống thủy tinh uốn cong một đầu là dụng cụ T dùng để sử dụng ma túy và 92.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Tại Cáo trạng số 35/CTr-VKS ngày 24 tháng 02 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố Trần T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Trần T từ 01 năm đến 1 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2020.

Qua trưng cầu giám định, tại Bản kết luận giám định số 825 ngày 20/11/2020, của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai, kết luận:“Chất màu trắng, dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,1455gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Bản kết luận giám định số 825/KLGĐ ngày 20/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai.

Ý kiến của người tham gia tố tụng:

-Anh Th (Lời khai tại hồ sơ): Anh chứng kiến việc bị cáo bị bắt quả tang khi đang tàng trữ ma túy và xác nhận khi bị bắt quả tang bị cáo khai chất đang tàng trữ là ma túy loại để sử dụng.

- Chị Nguyễn Thị Diễm H: việc bị cáo cất giấu ma túy tại phòng trọ khi ở cùng chị để sử dụng thì chị không biết, Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như lời khai của người làm chứng, biên bản khám xét và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần T đã tàng trữ ma túy để sử dụng. Lượng ma túy thu được của bị cáo là 0,1455gamMethamphetamine; hành vi của bị cáo đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đối với bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3]Ma tuý là chất thuộc phạm vi độc quyền quản lý của Nhà nước. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, hành vi này không chỉ tác động có hại trực tiếp đối với người sử dụng mà còn đối với cộng đồng xã hội. Hành vi này kéo theo nhiều tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng đến sự bình yên của cộng đồng, trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo phải nghiêm trị để răn đe và phòng ngừa chung đối với tội phạm.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo:Bản thân bị cáo là người sử dụng ma túy, bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy, nhưng vì để thỏa mãn nhu cầu bản thân, bị cáo đã tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của nhà nước.Do đó, cần quyết định cho bị cáo tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện để bị cáo cải tạo bản thân là cần thiết.

[5]Xét bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo có công với Cách mạng: có anh ruột là liệt sỹ nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định mức hình phạt.

[6]Hành vi phạm tội của bị cáo không thu lợi cho nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]Đối với, đối tượng nam tên Th ở thành phố P mà bị cáo khai là người đã mua ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ của đối tượng trên, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P chưa có căn cứ xử lý.

Đối với người liên quan: Nguyễn Thị Diễm H việc bị cáo cất giấu ma túy tại phòng trọ để sử dụng thì chị không biết nên không xử lý về hành vi không tố giác tội phạm hoặc chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.

[8]Xử lý vật chứng:92.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là tài sản của bị cáo, không liên quan hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo;01 (một) điện thoại di động Nokia màu đen kèm sim số là phương tiện bị cáo dùng để liên lạc mua ma túy cần tịch thu sung công; 01 ống thủy tinh uốn cong 01 đầu và số ma túy còn lại sau giám định trong bì công văn ghi số 8255/PC09 ngày 20/11/2020 có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai là những vật cấm tàng trữ, lưu hành, không còn giá trị sử dụng cần tiêu hủy.

[9]Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 1/ Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Trần T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2/ Về điều luật áp dụng:

- Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ các Điểm a và c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án;

3/ Về hình phạt:Xử phạt bị cáo Trần T 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/11/2020.

4/ Các vấn đề khác:

- Về xử lý vật chứng:

+ Trả lại cho bị cáo 92.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

+ Tịch thu sung công: 01 điện thoại di động Nokia màu đen, kèm sim số (điện thoại cũ đã qua sử dụng. Chi cục THADS TP.P không kiểm tra tình trạng bên trong);

+ Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) ống thủy tinh uốn cong một đầu; 01 bì công văn dán kín ghi số 825/PC09 ngày 20/11/2020, có dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai (có các chữ ký Lê Tiến L, Hoàng V, Bùi Sĩ T).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P).

- Về án phí:Buộc bị cáoTrần T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáođược quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân Tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 7a và 7b Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 33/2021/HSST

Số hiệu:33/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về