Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 28/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2023, tại điểm cầu số 1 (điểm cầu trung tâm), Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B và điểm cầu số 2, tại Trại tạm giam Công an tỉnh B; mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 31/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

La Văn L, sinh năm 1999;

HKTT: Bản Khe Đóng, xã Thạch Ngàn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông La Văn Đ, sinh năm 1971 và bà Lô Thị C, sinh năm 1976; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/9/2023 đến nay, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh B (Có mặt tại phiên tòa).

Những người tham gia tố tụng khác:

1. Cán bộ tin học, Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh B (Có mặt);

2. Cán bộ phụ trách tin học, thuộc trại tạm giam Công an tỉnh B (Có mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ ngày 06/9/2023, tại đầu ngõ gần phòng trọ của La Văn L ở thôn Đoài, xã Hoàn Sơn, huyện T, Công an huyện T phối hợp Công an xã Hoàn Sơn bắt quả tang La Văn L và thu giữ:

+ Lòng bàn tay phải của L có 01 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng L khai nhận đây là ma túy do L mua về chưa kịp sử dụng thì bị bắt.

Cơ quan Công an đã tiến hành đưa L cùng vật chứng về trụ sở Công an huyện T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và làm việc.

Tại bản Kết luận giám định số: 1842/KL-KTHS, ngày 08/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B kết luận:

+ Chất bột màu trắng bên trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng có khối lượng 0,1608 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, bị cáo L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 168/CT-VKS-TD ngày 06/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã:

Truy tố bị cáo L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận:

Do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên khoảng 10 giờ ngày 06/9/2023 bị cáo bắt xe ôm của người đàn ông không quen biết ở gần khu nhà trọ để đi ra bến xe Từ Sơn mục đích mua ma tuý. Tại đây, bị cáo gặp một người đàn ông không quen đứng ở dọc đường bị cáo có đặt vấn đề mua 200.000 đồng tiền ma tuý, người đàn ông này đồng ý. Bị cáo đưa 200.000 đồng cho người đàn ông và người đàn ông đưa lại cho bị cáo 01 đoạn ống nhựa màu trắng được hàn kín 2 đầu bên trong có chứa chất bột màu trắng. Bị cáo cầm ở lòng bàn tay phải sau đó ra bắt xe ôm của một người đàn ông không quen biết về phòng trọ để sử dụng. Về gần đến khu trọ, bị cáo xuống xe và đi bộ về phòng trọ. Bị cáo đi bộ đến đầu ngõ vào khu nhà trọ lúc này khoảng 11 giờ thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Bị cáo thừa nhận bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố về tội danh như trên là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố:

Bị cáo L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Đề nghị áp dụng điểm c, khoản 1; điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: La Văn L từ 14 tháng đến 16 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 06/9/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì thư hoàn trả lại mẫu vật sau giám định được niêm phong dán kín bên ngoài có đóng dấu niêm phong và chữ ký của Giám định viên phòng PC09 - Công an tỉnh B.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, khi nói lời sau cùng, bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện T xét xử là đúng người, đúng tội, không oan sai và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu được tại hiện trường và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Hồi 11 giờ ngày 06/9/2023, tại đầu ngõ gần phòng trọ của La Văn L ở thôn Đoài, xã Hoàn Sơn, huyện T, Công an huyện T phối hợp Công an xã Hoàn Sơn bắt quả tang La Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 0,1608 gam, loại ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân.

Hành vi của bị cáo L tàng trữ chất ma túy để sử dụng cho bản thân, bị cáo bị truy tố về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng quy định.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý; hành vi của bị cáo gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân trong khi Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Nhưng bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, vì thiếu hiểu biết bị cáo đã đi vào con đường phạm tội. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo L là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội tuy nhiên là loại tội nghiêm trọng.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định điểm s, khoản 1, khoản 2, điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T là phù hợp. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xét xử bị cáo bằng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới giúp bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi tàng trữ sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo không nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, bị cáo sống ở vùng kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo như lời đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

[5] Về vật chứng của vụ án: Số ma tuý mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[6] Liên quan trong vụ án này:

Đối với hai người đàn ông lái xe ôm chở L từ phòng trọ đến bến xe Từ Sơn và từ bến xe Từ Sơn về phòng trọ; người đàn ông bán ma túy cho L ở khu vực bến xe Từ Sơn. Do L không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này nên đến nay chưa xác định được con người cụ thể, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

Tại biên bản kiểm tra ma túy đối với La Văn L, kết quả dương tính (có sử dụng ma túy heroine). Tại Cơ quan điều tra, L khai không nhớ sử dụng ở đâu. Vì vậy chưa đủ căn cứ để xử lý hành chính L về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, khi nào làm rõ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo La Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ điểm c, khoản 1, điều 249; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38, Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo La Văn L 14 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 06/9/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị cáo La Văn L 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 phòng bì thư hoàn trả lại mẫu vật sau giám định được niêm phong dán kín mép dán, trên mép dán có chữ niêm phong của giám định viên và dấu Phòng PC 09 Công an tỉnh B, có ghi mẫu vật hoàn trả lại sau khi giám định trong vụ: La Văn L, SN 1999 ở Bản Khe Đóng, xã Thạch Ngàn, Con Cuông, Nghệ An phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” ngày 06/9/2023.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/11/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

Căn cứ các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về