Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 16/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2023/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Khắc S, sinh ngày: 12/3/2001; nơi sinh: huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: thôn P, xã X 2, huyện S, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê S1 và bà Nguyễn Thị Ph; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/5/2020, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” tại Bản án số 31/2020/HS-ST, chấp hành xong vào ngày 31/10/2020. Ngày 28/02/2020, bị Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPVPHC ngày 28/02/2020 của Công an quận Liên Chiểu, bị cáo nộp phạt ngày 04/3/2020. Bị bắt tạm giữ ngày 12/6/2023, chuyển tạm giam ngày 21/6/2023. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Lê Thị Hồng L, sinh năm 1964. Vắng mặt.

Địa chỉ: tổ dân phố H, thị trấn A, huyện S, tỉnh Quảng Nam.

+ Ông Lê S1, sinh năm 1973. Vắng mặt.

Nơi cư trú: thôn P, xã X 2, huyện S, tỉnh Quảng Nam.

- Người làm chứng: ông Bùi Viết Đ, sinh năm 1968. Vắng mặt

Địa chỉ: tổ dân phố H, thị trấn A, huyện S, tỉnh Quảng Nam.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 10/6/2023, bị cáo đón taxi đến quán Bar Diamond Club tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam để chơi. Bị cáo gặp một nam thanh niên (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi bị cáo có mua ma túy để sử dụng không. Bị cáo đồng ý và đưa cho người thanh niên 9.000.000 đồng, người thanh niên đưa cho bị cáo 15 viên nén (ma túy dạng kẹo) và 03 túi nilong chứa ma túy dạng khay. Sau đó, bị cáo quay về phòng trọ của người yêu bị cáo thuê (tên Hân, không rõ họ tên, địa chỉ) tại tổ dân phố Hương An, thị trấn Hương An, huyện Quế Sơn. Đến khoảng 03 giờ ngày 11/6/2023, bị cáo lấy một phần ma túy vừa mua đem ra sử dụng xong đi ngủ. Đến khoảng 12 giờ ngày 12/6/2023, bị cáo tiếp tục lấy một phần số ma túy trên ra sử dụng. Trong lúc đang sử dụng, Cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện trên đĩa sứ màu trắng tại giường ngủ có chất rắn dạng bột màu trắng. Trong quá trình kiểm tra, bị cáo tự nguyện giao nộp số ma túy còn lại gồm: 04 viên nén màu xanh (không rõ hình dạng); 09 viên nén màu cam hình tam giác đều, mỗi cạnh dài 0,9 cm; 01 túi nilong trong suốt bên trong có chứa chất rắn màu trắng, dạng tinh thể; 01 viên nén màu xanh đã sử dụng một nửa và một số đồ vật để sử dụng chất ma túy gồm: 01 thẻ nhựa màu đen, 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được quấn thành dạng ống hút, 01 bật lửa màu đỏ. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản, tạm giữ toàn bộ tang vật và đưa bị cáo về trụ sở Công an làm việc.

Quá trình khám xét phòng trọ bị cáo ở không phát hiện gì thêm. Khám xét nhà của bị cáo tại thôn Phú Vĩnh, xã Quế Xuân 2 phát hiện 01 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng được quấn thành dạng ống hút được cố định bằng 03 miếng giấy dạng hình ống. Tại biên bản xét nghiệm ma túy ngày 12/6/2023 đối với bị cáo, kết quả dương tính với ma túy. Qua làm việc, bị cáo khai nhận mua số ma túy trên về để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 1173/KL-KTHS ngày 15/6/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng kết luận: 04 (bốn) viên nén màu xanh là ma túy, loại MDMA, tổng khối lượng mẫu là 1,43gam. 09 (chín) viên nén màu cam là ma túy, loại MDMA và Ketamine, tổng khối lượng mẫu là 3,12gam. Chất rắn dạng tinh thể 2 màu trắng trong túi ni lông là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu là 1,61gam. Chất bột màu trắng thu giữ trên đĩa sứ là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu là 0,12gam. 01 viên nén màu xanh là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu là 0,07gam.

Ngày 16/6/2023, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 08/QĐ-ĐTTH trưng cầu Phân viện Khoa học hình sự giám định bổ sung hàm lượng, khối lượng chất ma túy đối với 3,12 gam ma túy loại MDMA và Ketamine. Tại Kết luận giám định số 1201/KL-KTHS ngày 20/6/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại Đà Nẵng kết luận: Hàm lượng MDMA và Ketamin trong 09 viên nén màu cam lần lượt là 38,88% và 1,42%. Khối lượng chất ma túy MDMA trong 09 viên nén màu cam là 1,21 gam, khối lượng chất ma túy Ketamine trong 09 viên nén màu cam là 0,04 gam. Tại Công văn số 241/C09C-DD2 ngày 30/8/2023 về việc giải thích kết luận giám định:

“Tổng khối lượng chất ma túy MDMA và Ketamine là 1,25gam, ít hơn so với khối lượng ban đầu 1,87gam. Phần chênh lệch 1,87gam đó là các chất không phải ma túy, tiền chất quy định quy định trong danh mục các chất ma túy, tiền chất được ban hành (tạp chất, chất độn, chất trung gian...)”.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 (một) túi nilong trong suốt hình chữ nhật bên trong chứa 04 viên nén màu xanh (không rõ hình dạng); 01(một) túi nilong trong suốt hình chữ nhật bên trong chứa 09 viên nén màu cam hình tam giác đều, mỗi cạnh dài 0,9cm; 01 (một) túi nilong trong suốt bên trong có chứa chất rắn màu trắng, dạng tinh thể; 01 (một) viên nén màu xanh đã sử dụng một nửa, không rõ hình dạng; chất bột màu trắng được lấy trên đĩa sứ màu trắng; 01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 25cm; 01 (một) thẻ nhựa hình chữ nhật màu đen có kích thước (5x8) cm bên trên có dòng chữ VINGROUP và dãy số 8888200838010263; 01 (một) tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được quấn thành dạng ống hút có hai bao đầu lọc thuốc lá cố định bên ngoài; 01 (một) bật lửa màu đỏ bên trên có dòng chữ “Trao hứng khởi, trao niềm vui”; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xám, số IMEI1: 353890106124404, IMEI2: 353890106222364 bên trong có thẻ sim điện thoại số 0905746X; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner X, màu đen, biển số 92G1-X; 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Whiete horse, màu vàng; 06 (sáu) túi nilong trong suốt hình chữ nhật diện (3x2,5)cm, miệng túi có viền màu xanh; 01 (một) tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được quấn thành dạng ống hút, cố định bằng 03 miếng giấy dạng hình ống thu giữ tại nhà bị cáo S; số tiền 1.190.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 26/CT-VKSQS ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo Lê Khắc S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

3 Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo tại Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Khắc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Khắc S mức án từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 12/6/2023.

Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) túi niêm phong số 1173/KL-KTHS và 01 túi niêm phong số 1201/KL-KTHS của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định; 01 bao ni lông màu sọc trắng xanh, được bọc và dán kín miệng bao bằng tờ giấy trắng A4, bên trong chứa:

01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 25cm; 01 (một) thẻ nhựa hình chữ nhật màu đen có kích thước (5x8) cm bên trên có dòng chữ VINGROUP và dãy số 8888200838010263; 01 (một) bật lửa màu đỏ bên trên có dòng chữ “Trao hứng khởi, trao niềm vui”; 01 bì thư có dòng chữ “CÔNG AN THỊ TRẤN HƯƠNG AN” được dán kín, bên trong chứa 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Whiete horse, màu vàng; 06 (sáu) túi nilong trong suốt hình chữ nhật diện (3x2,5)cm, miệng túi có viền màu xanh; hai bao đầu lọc thuốc lá cố định bên ngoài tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng và 03 miếng giấy dạng hình ống được bên ngoài tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Tịch thu sung quỹ 02 (hai) tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Khắc S 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xám, số IMEI1: 353890106124404, IMEI2: 353890106222364 bên trong có thẻ sim điện thoại số 0905746X và số tiền 1.190.000 đồng.

- Trả lại cho ông Lê S1 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner X, màu đen, biển số 92G1-X.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Khắc S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị Hồng L, ông Lê S1 và người làm chứng ông Bùi Viết Đ vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đã có lời khai tại hồ sơ 4 vụ án và sự vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 292, 293 và 299 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt họ tại phiên tòa.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Lê Khắc S đã khai nhận hành vi phạm tội đối chiếu với lời khai của người tham gia tố tụng khác, với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử kết luận:

Khoảng 15 giờ ngày 12/6/2023, tại phòng trọ của bà Lê Thị Hồng L, địa chỉ tổ dân phố Hương An, thị trấn Hương An, huyện Quế Sơn, bị cáo Lê Khắc S đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Tổng khối lượng chất ma túy mà Lê Khắc S đã mua về nhằm mục đích sử dụng là 2,71 gam MDMA và 1,77 gam Ketamine. Hành vi của bị cáo S thuộc trường hợp các chất ma túy không được quy định trong cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của 02 chất ma túy nêu trên theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự là 63,05%.

Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở khẳng định: bị cáo Lê Khắc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Vì vậy, Cáo trạng số 26/CT- VKSQS ngày 02 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: bị cáo S là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tại thời điểm phạm tội, bị cáo biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo vẫn bất chấp thực hiện. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma tuý mà còn là nguy cơ tiềm ẩn các hành vi vi phạm pháp luật khác, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu: ngày 18/5/2020, bị Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản” tại bản án số 31/2020/HS-ST, chấp hành xong vào ngày 31/10/2020. Ngày 28/02/2020, bị Công an quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “xâm hại sức khỏe người khác” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPVPHC ngày 28/02/2020 của Công an quận Liên Chiểu, bị cáo nộp phạt ngày 04/3/2020.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình nhưng nhất thiết phải áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt tù có thời hạn đối với bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo tàng trữ hai chất ma tuý có khối lượng 2,71 gam MDMA và 1,77 gam Ketamine, tổng hợp hai chất là 4,48 gam. Do đó, mức đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[6]. Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, hành vi của bị cáo có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung nhưng xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[7]. Đối với hành vi của những người có liên quan đến vụ án:

Đối với người thanh niên đã bán ma tuý cho bị cáo S và người phụ nữ tên Hân (là người thuê nhà trọ của Lê Thị Hồng L), bị cáo không biết tên, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xác minh.

Đối với chủ nhà trọ nơi bị cáo sử dụng ma tuý, bà Lê Thị Hồng L không biết bị cáo S tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý nên không có căn cứ để xử lý.

[8]. Về xử lý vật chứng:

6 - Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) túi niêm phong số 1173/KL-KTHS và 01 túi nêm phong số 1201/KL-KTHS của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định; 01 bao ni lông màu sọc trắng xanh, được bọc và dán kín miệng bao bằng tờ giấy trắng A4, bên trong chứa:

01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 25cm; 01 (một) thẻ nhựa hình chữ nhật màu đen có kích thước (5x8) cm bên trên có dòng chữ VINGROUP và dãy số 8888200838010263; 01 (một) bật lửa màu đỏ bên trên có dòng chữ “Trao hứng khởi, trao niềm vui”; 01 bì thư có dòng chữ “CÔNG AN THỊ TRẤN HƯƠNG AN” được dán kín, bên trong chứa 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Whiete horse, màu vàng; 06 (sáu) túi nilong trong suốt hình chữ nhật diện (3x2,5)cm, miệng túi có viền màu xanh; hai bao đầu lọc thuốc lá cố định bên ngoài tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng và 03 miếng giấy dạng hình ống cố định tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 (hai) tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Khắc S 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xám, số IMEI1: 353890106124404, IMEI2: 353890106222364 bên trong có thẻ sim điện thoại số 0905746X.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.190.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

- Đối với xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner X, màu đen, biển số 92G1-X: qua điều tra, xác định được chủ sở hữu là ông Lê S1. Xe mô tô không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho chủ sở hữu.

[9]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10]. Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 332 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; các Điều 106, 136, 260, 268, 269, 292, 299, 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

7 1. Tuyên bố: bị cáo Lê Khắc S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Khắc S 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ (12/6/2023).

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 (một) túi niêm phong số 1173/KL-KTHS và 01 túi nêm phong số 1201/KL-KTHS của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng, bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định; 01 bao ni lông màu sọc trắng xanh, được bọc và dán kín miệng bao bằng tờ giấy trắng A4, bên trong chứa:

01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn, đường kính 25cm; 01 (một) thẻ nhựa hình chữ nhật màu đen có kích thước (5x8) cm bên trên có dòng chữ VINGROUP và dãy số 8888200838010263; 01 (một) bật lửa màu đỏ bên trên có dòng chữ “Trao hứng khởi, trao niềm vui”; 01 bì thư có dòng chữ “CÔNG AN THỊ TRẤN HƯƠNG AN” được dán kín, bên trong chứa 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu Whiete horse, màu vàng; 06 (sáu) túi nilong trong suốt hình chữ nhật diện (3x2,5)cm, miệng túi có viền màu xanh; hai bao đầu lọc thuốc lá cố định bên ngoài tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng và 03 miếng giấy dạng hình ống cố định tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước 02 (hai) tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lê Khắc S 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xám, số IMEI1: 353890106124404, IMEI2: 353890106222364 bên trong có thẻ sim điện thoại số 0905746X.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.190.000 đồng để đảm bảo thi hành án.

- Trả lại cho ông Lê S1 01 (một) xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner X, màu đen, biển số 92G1-X (Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2023. Riêng số tiền 1.190.000 đồng được tạm gửi tại Kho bạc huyện Quế Sơn theo uỷ nhiệm chi ngày 06/10/2023).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (16-11-2023). Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi 8 hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về