Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 32/2023/HS-ST NGÀY 07/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST- HS ngày 31 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn T (Vũ Th), sinh ngày 15/3/1988, tại huyện T, tỉnh An Giang, nơi cư trú: khóm 2, thị trấn TT, huyện T, tỉnh An Giang. Chỗ ở hiện nay: ấp A, xã C, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; giới tính: Nam; trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Đạo phật; con ông Nguyễn S và bà Bùi Ấ; anh chị em có 02 người, bị cáo là người thứ hai; có vợ là Nguyễn N, con có 01 người sinh năm 2017. Tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 27 tháng 02 năm 2023 cho đến nay (có mặt).

Người làm chứng: Bà Bùi N (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 26/02/2023, bị cáo Nguyễn T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 67N1-52.0xx từ nhà bà Bùi N (dì ruột của T) ngụ tổ 18, ấp A, xã C, huyện T đến khu vực cầu Cống Đồn thuộc thành phố C gặp bé S (chưa rõ họ, địa chỉ). Bị cáo mua 1.000.000đ ma túy loại heroin (01 cục nhỏ đựng trong bọc nilon trong suốt) và 200.000đ ma túy loại ma túy đá (để trong ống hút nhựa).

Sau đó, bị cáo mang toàn bộ số ma túy đã mua đem về nhà bà Bùi N tại địa chỉ trên để sử dụng. Sau khi sử dụng loại ma túy tổng hợp (đá) xong, bị cáo tiếp tục sử dụng một ít ma túy loại heroin trong số ma túy đã mua về, còn lại bị cáo để trên giường bị cáo ngủ (trong phòng ngủ nhà bà N). Đến khoảng 08 giờ ngày 27/02/2023, sau khi được bà N vận động, bị cáo đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Tri Tôn đầu thú, khai nhận hành vi cất giấu 01 bọc nilon ma túy để sử dụng, nên lực lượng Công an cùng bị cáo đến nhà bà N và bị cáo đã giao nộp số ma túy còn lại, lực lượng chức năng tiến hành lập biên bản cùng vật chứng.

Tang vật thu giữ gồm có: 01 bọc nilon trong suốt có rãnh khóa viền xanh chứa chất bột màu trắng (nghi là ma túy); 01 lưỡi lam; 01 hộp nhựa hình trụ tròn trong suốt, trên nắp có gắn 01 ống hút nhựa và 01 nỏ thủy tinh.

Nguồn gốc số ma túy thu giữ, bị cáo T khai nhận như nội dung tóm tắt vụ án. Quá trình điều tra xác định ngày 26/02/2023 bị cáo mua của đối tượng bé S 01 bọc nilon ma túy và 01 tép ma túy, với tổng số tiền 1.200.000đ, đem về phòng ngủ tại nhà bà N ngụ tổ 18, ấp A, xã C, huyện T, bị cáo sử dụng 01 tép ma túy và một ít ma túy trong bọc nilon, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu trên giường ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 27/02/2023, sau khi được bà N vận động, bị cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tri Tôn đầu thú, khai nhận hành vi cất giấu 01 bọc nilon ma túy để sử dụng nên tiến hành lập biên bản cùng vật chứng.

Tại kết luận giám định số: 36/KL-KTHS (MT-GT) ngày 05/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang kết luận:“01 bọc nilon trong suốt, loại c khâu, bên trong chứa chất màu trắng là ma túy, loại Heroine, khối lượng 2,3800 gam”.

Tại Cáo trạng số 25/CT-VKSTT-HS ngày 31/5/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn truy tố Nguyễn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi chung Bộ luật Hình sự).

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Người làm chứng bà Bùi N trình bày: Bà biết T có sử dụng trái phép chất ma túy nên đã vận động Thành đi đầu thú. Việc Thành cất giấu 01 bọc nilon ma túy tại giường ngủ thì bà không biết, ngoài ra không có ý kiến gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo: Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. p dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự ; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ sau khi giám định là ma túy Heroine, khối lượng 2,3462 gam.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn T đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 26/02/2023, Nguyễn T đến khu vực cầu Cống Đồn thuộc thành phố C mua của Bé S (chưa rõ họ, địa chỉ) 01 bọc nilon ma túy và 01 tép ma túy, với tổng số tiền 1.200.000đ đem về phòng ngủ tại nhà bà Bùi N; ngụ tổ 18, ấp A, xã C, huyện T, bị cáo sử dụng 01 tép ma túy và một ít ma túy trong bọc nilon, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu trên giường ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 27/02/2023, sau khi được bà N vận động bị cáo đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Tri Tôn đầu thú, khai nhận hành vi cất giấu 01 bọc nilon ma túy để sử dụng nên tiến hành lập biên bản cùng vật chứng. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm (tội phạm nghiêm trọng). Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Nguyễn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng v n cố ý thực hiện với mục đích để sử dụng. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hiện tại trên địa bàn huyện Tri Tôn các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi xã hội là cần thiết, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội. Mức hình phạt tù có thời hạn mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra, đề nghị này được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, hiện điều kiện hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Đối với đối tượng có tên Bé S (người có liên quan trong vụ án). Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn T khai không biết rõ nhân thân của người này, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ yêu cầu xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn T 02 (Hai) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 27 tháng 02 năm 2023).

Căn cứ Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong (Vụ số: 36/KL- KTHS (MT-GT) ngày 05/3/2023, có in dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang và chữ ký ghi tên Nguyễn H, Nguyễn L. Bên trong có m u còn lại sau khi đã giám định là ma túy Heroine, khối lượng 2,3462g; 01 (một) lưỡi lam màu trắng (đã qua sử dụng); 01 (một) hộp nhựa hình tròn trong suốt, trên nắp hộp có gắn 01 ống hút nhựa và 01 nỏ thuỷ tinh (đã qua sử dụng). (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 6 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an huyện Tri Tôn với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tri Tôn).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 32/2023/HS-ST

Số hiệu:32/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tri Tôn - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về